[Funland] Dịch tài liệu cổ: Thư, Nhật ký các giáo sĩ viết về nhàTây Sơn, nhà Lê, chúa Trịnh và Nguyễn Ánh.

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Bá Đa Lộc, Giám quản Tông toà Đàng Trong

Phú Yên, ngày 16 tháng 6 năm 1794

Tôi chưa bao giờ cảm thấy xấu-hổ khi viết thư cho ông như tôi bây giờ. Tôi chỉ còn tờ giấy cuối cùng này, một cây bút tồi; Tôi ngồi dưới đất như một người thợ may, không có chiếc bàn nào khác ngoài chiếc đệm. Ông hầu như không hiểu tất cả những điều này, tôi sẽ giải thích nó cho ông [sau].

Tháng 12 năm ngoái, nhà vua [ Ánh] buộc phải cử con trai mình [ hoàng tử Cảnh] chỉ huy quân đội trấn giữ một trong những trấn biên giới (Nha-trang), [ là người] chịu trách nhiệm về việc giáo dục của anh ta, tôi đã sẵn sàng tháp tùng anh ta đến đó. không có người truyền giáo trong nhiều năm. Chúng tôi bị bao vây ở đó vào cuối tháng 4 [ Theo thư của ông Liot, trích dẫn thư của ông Lavoué thì: “thủy quân Tây-sơn đã xuất hiện ở cửa cảng Nha-trang ngày 28-4-1794. Vào ngày 2 tháng 5, chúng tôi biết tin về quân nổi dậy, bao gồm 15.000 người, cùng với bốn hoặc năm nghìn lính hải quân, đã hình thành vòng vây. Nhưng vào ngày 23 cùng tháng [23 tháng 5], họ buộc phải nới vòng vây, sau khi gần một nghìn người thiệt mạng trong ba trận giao tranh, và cuộc bao vây kéo dài gần một tháng]

Kẻ thù, trong thời gian này, đã mất nhiều người do đào ngũ và do các cuộc xuất kích khác nhau của quân bị bao vây [tức là quân Nguyễn do hoàng tử Cảnh chỉ huy], cuối cùng thấy mình buộc phải nới vòng vây và rút lui vội vàng. Hoàng tử bắt đầu truy đuổi họ bằng đường bộ, trong khi nhà vua, cha của anh ta, truy đuổi họ bằng đường biển. chúng tôi vẫn còn rất nhiều rắc rối.

Cuối cùng, chúng tôi cũng vừa đến một tỉnh mà quân thù đã rút lui, và ở đó chúng có một thành phố và một thành trì khá kiên cố. Nhà vua, người đang ở đây với một lực lượng hải quân, sẽ tấn công họ ở trung tâm phòng thủ (tức là tỉnh Quy-nhơn), và con trai của ông vẫn ở đây chờ đợi sự tiếp tục của cuộc viễn chinh này. Tôi vội viết cho ông vài chữ. Con tàu mang đến cho ông bức thư này, đó sẽ là cơ hội duy nhất mà tôi có trong năm nay để báo cho ông biết tin tức của tôi, [tôi] sẽ rời đi vào tối nay cùng với Nhà vua. Điều làm tôi buồn là không thể viết thư cho Hội thánh năm nay. Từ khi trở lại đất nước này, tôi chỉ vắng mặt một lần, vì một cơn bạo bệnh tấn công tôi khi tàu rời bến.

Trước khi rời Sài Gòn đến đây, tôi đã bổ-nhiệm hai vị đại diện để thay thế tôi cai quản phần Đàng Trong mà tôi sắp rời đi, đó là ông Liot và cha Jacques, một tu sĩ dòng Phanxicô, người bạn đồng hành cũ của tôi.

[ Khi biết Nguyễn Huệ đã chết, Nguyễn Nhạc cũng sớm muộn bại trận, chiến thắng liên tục, Nguyễn Ánh liền trở mặt, đểu cáng với Bá Đa Lộc ngay, cho Lộc ra rìa ngồi chơi xơi nước và tìm cách đuổi khéo Lộc, thư này Bá Đa Lộc gửi về Vatican thể hiện sự buồn phiền và xấu hổ, đồng thời muốn rời Đàng Trong về Vatican]

[Lưu trữ Thư viện Vittorio-Emmanuele, Rome, Mss. Jesuitici, 198 (2327), tài liệu 10, tr. 108]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của Giám mục Gortyne, Đại diện Tông tòa Tây Đàng Ngoài

[ Đại diên Tông tòa Tây Đàng Ngoài lúc này là giáo sĩ Longer Jacques-Benjamin, quê ở Le Havre, học đại học Sorbonně, đi truyền giáo năm 1775, truyền giáo đầu tiên ở Đàng Trong, rồi ở Đàng Ngoài, thánh hiến ở Macao ngày 30-9-1792, mất ngày 8-2-1831].

Sở Kiện, ngày 22 tháng 4 năm 1794

.... [ Việc] Truyền giáo ở Đàng Ngoài khá yên bình. Tuy nhiên, luôn có những cuộc đàn áp đặc biệt, nhưng chúng không gây hại [ cho Đạo Thiên Chúa] bằng những cuộc chiến tranh liên miên mà đất nước khốn khổ này phải gánh chịu.

Nhạc nổi tiếng [một trong những thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Nam Hà] qua đời vào ngày 13 tháng 12 năm ngoái. Vài tháng trước, nhận thấy mình không thể chống lại vị vua hợp pháp [Ánh], ông đã kêu gọi quân đội của cháu mình [ Cảnh Thịnh], bạo chúa của Đàng Ngoài và Thượng Nam Kỳ, giúp đỡ.

Các thủ lĩnh của đội quân nói trên [ tức là quân Tây Sơn của Cảnh Thịnh] chẳng những không cứu giúp mà còn hắt hủi Nhạc đến mức ông ta chết vì đau buồn. Thậm chí có tin đồn rằng ông đã tự đầu độc mình. . ..

[Lưu trữ: Bibliothèque Vittorio-Emmanuele, Mss. Gesuitici, 198 (2327), document 10, p. 103.]
 

Xe nội lước

Xe container
Biển số
OF-528779
Ngày cấp bằng
26/8/17
Số km
7,336
Động cơ
294,388 Mã lực
Các bức thư là những trao đổi cá nhân giữa các giáo sĩ, hoặc các ghi chép cá nhân, được lưu trữ ở thư viện Vatican và văn khố hội Thừa Sai Paris.
Những thông-tin trong thư hoàn toàn mang cách đánh giá cá nhân, vì vậy, thông tin các cụ coi như tham khảo, để đọc và có một góc nhìn sâu hơn về 1 giai đoạn Lịch sử.
Do văn phong các giáo sĩ là văn phong ngôn ngữ nhà thờ, có thư bằng tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Latin...nên khi dịch, em cố giữ lại văn phong gốc, nhưng sẽ có chú thích cho rõ.
Do trình độ ngoại ngữ tiếng Pháp, Tây Ban Nha và Latin rất ngu dốt, văn phong quê mùa, trình độ hạn chế, mong các cụ lượng thứ.
Cụ đóng góp rất nhiều và rất hay. Và lần nào cũng 1 lời khiêm tốn.
Kính cụ 1 chai.
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,573 Mã lực
Cụ Đốc dịch từ văn bản gốc à, e có quyển pdf này, "NHỮNG TÀI LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN THỜI GIA-LONG" đã dịch sẵn sang tiếng Pháp. Trong số các tài liệu dạng thư từ này, thư của GM Labousse có vẻ được giới sử học trích dẫn nhiều, đặc biệt cho các diễn biến xung quanh cuộc long tranh hổ đấu giữa nhà Tây Sơn và họ Nguyễn Gia Miêu ?

~~~

Mục lục: e dùng Gg translate cho nhanh, thấy sai lung tung :P

GIỚI THIỆU
I. — Sắc lệnh năm 1774 về Cơ đốc giáo 3
II. — Thư của M. La Bartette gửi M. Alary, ngày 24 tháng 7 năm 1780 ... 4
III. — Thư của M. La Bartette gửi M. Blandin, ngày 13 tháng 4 năm 1784. . . 5
IV. — Thư của M. Longer gửi M. Blandin, ngày 13 tháng 4 năm 1784 .... 6
V. — Thư của M. Le Roy gửi M. Blandin, hoàn thành ngày 6 tháng 12 năm 1786. 6
VI. — Thư của M. Sérard gửi M. Blandin, ngày 31 tháng 7 năm 1786 .... 9
VII. — Thư của M. La Bartette gửi M. Blandin, ngày 23 tháng 6 năm 1786. . . Г2
VIII. — Thư của M. La Bartette gửi M. Desourvières, một phần đề ngày 10 tháng 7, một phần đề ngày 1 tháng 8 năm 1786 14
IX. — Thư của M. Longer gửi M. Blandin, một phần đề ngày 26 tháng 7 năm 1786, một phần đề ngày 3 tháng 5 năm 1787 15
X. — Thư của M. Doussain gửi M. Blandin, ngày 6 tháng 6 năm 1787 .... 18
XI. — Thư của M. Doussain gửi M. Blandin, ngày 16 tháng 6 năm 1788. ... 19
XII. — Thư của M. Boisserand, ngày 11 tháng 8 năm 1789 20
XIII. — Thư của M. Lavoué gửi M. Boiret, ngày 10 tháng 10 năm 1790. ... 23
XIV. — Thư của M. Liot gửi M. Boiret, ngày 8 tháng 1 năm 1791 24
XV. — Thư của M. Lavoué [gửi M. ?], ngày 20 tháng 2 năm 1791 25
XIV. — Thư của M. Le Labousse, ngày 16 tháng 6 năm 1792 25
XVII. — Thư của M. Liot gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 18 tháng 7 năm 1792 28
XVIII. — Thư của M. Le Labousse gửi M. Boiret, ngày 26 tháng 6 năm 1793 ... 28
XIX. — Thư của M. Lavoué gửi M. Hody, ngày 31 tháng 7 năm 1793 29
XX. — Thư của M. Lavoué gửi M. Blandin, ngày 1 tháng 8 năm 1793 .... 29
XXI. — Thư của M. Létondal, ngày 20 tháng 12 năm 1793 30
XXII. — Thư của bà d'Adran, ngày 16 tháng 6 năm 1794 31
XXIII. — Thư của Giám mục Gortyn, ngày 22 tháng 4 năm 1794 .... 32
XXIV. — Thư của M. Lavoue gửi MM. Boiret và Desourvières, ngày 13 tháng 5 năm 1795 32
XXV. — Thư của M. Le Labousse gửi M. Létondal, ngày 22 tháng 6 năm 1795. . 35
XXVI. — Thư của M. Gire gửi MM. Boiret, Chaumont và Blandin, ngày 12 tháng 1 năm 1796 35
XXVII. — Thư của M'1 d'Adran gửi cho kiểm sát viên của Phái bộ Ngoại giao ở Macao, ngày 12 tháng 6 năm 1796 36
XVIII. — Thư của M. Le Labousse gửi M. Blandin, ngày 25 tháng 4 năm 1797. . . 37
XXIX. — Thư của M. Chaigneau gửi kiểm sát viên của Cơ quan đại diện nước ngoài tại Macao, ngày 10 tháng 6 năm 1798 37
XXX. — Thư của M. Liot, ngày 25 tháng 6 năm 1799 38
XXXI. — Thư của M. Le Labousse gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 24 tháng 4 năm 1800 38
XXXII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Barisy, ngày 2 tháng 3 năm 180 1 . ... 39
XXXIII. — Thư của M. Barisy gửi M. Létondal, ngày 1 tháng 4 năm 1801 40
XXXIV. — Thư của M. Barisv gửi “Monsieur Létondal hoặc Marquini”, ngày 16 tháng 4 năm 1801 43
XXXV. — Thư của M. Le Labousse gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 20 tháng 4 năm 1801 45
XXXVI. — Thư của Mgl La Bartette gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 27 tháng 6 năm 1801 47
XXXV11. — Thư của M. Barisy gửi cho MM. Marquini và Létondal, ngày 16 tháng 7 năm 1801 47
XXXVIII. — Thư của M. Langlois gửi M. Boiret, ngày 3 tháng 9 năm 1802. . . 55
XXXIX. - Thư của Mer La Bartette gửi ông Chaumont, ngày 17 tháng 9 năm 1803 57
XL. — Thư của bà La Bartette gửi M. Foulon, ngày 15 tháng 4 năm 1804. • 5 7
XLI. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Létondal, đề ngày 1806 hoặc 1807. . 58
XLII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Létondal, ngày 6 tháng 6 năm 1807. . . 59
XLIII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Létondal, ngày 12 tháng 5 năm 1808. . . 60
XLIV. — Thư của M. Audemar, ngày 28 tháng 4 năm 181 1 61
XLV. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Létondal, ngày 30 tháng 5 năm 1812. . . 6g
XLVI. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Baroudel, ngày 3 tháng 6 năm 1819. . . 62
XLVII. — Thư của M. Vannier gửi M. Baroudel, ngày 15 tháng 6 năm 1819. . • 62
XLVII. — Thư của Mfr La Bartette gửi M. Baroudel, ngày 5 tháng 6 năm 1820. . . 63
XLIX. — Thư của M. Vannier gửi M. Baroudel, ngày 13 tháng 7 năm 1820. . . 63
L. — - Thư của M"r La Bartette gửi M. Baroudel, ngày 13 tháng 6 năm 1821. . 65
LI. — Thư của M*r La Bartette gửi M. Breluque, ngày 27 tháng 7 năm 1821. 65
LII. — Thư của M. Vannier gửi M. Baroudel, ngày 2 tháng 8 năm 1821. ... 66
LIII. — Thư của M. Taberd gửi M. del Bissachère, ngày 8 tháng 10 năm 1821. 68
LIV. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Breluque, ngày 10 tháng 10 năm 1821. 69
LV. — Thư của bà La Bartette và M. Jarot gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 7 tháng 10 và 12 tháng 10 năm 1821. . 70
LVI. — Thư của M. Chaigneau gửi M. de la Bissachere, đề năm 1821. . . 71
LVII. — Thư của M. Baroudel gửi M. Vannier, ngày 26 tháng 1 năm 1822. . 72
LVIII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Baroudel, ngày 25 tháng 6 năm 1822. . . 72
LIX. — Thư của M. Vannier gửi M. Baroudel, ngày 20 tháng 7 năm 1822. . . 73
LX. — Thư của bà La Bartette gửi cho ông de la Bissachère, ngày 29 tháng 12 năm 1822 73
LXI. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Baroudel, ngày 23 tháng 5 năm 1823. . 74
LXII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. de la Bissachère ngày 11 tháng 11 năm 1823 74
LX1II. — Thư của M. Taberd gửi các giám đốc chủng viện Paris, 1823,.... 76
LXIV. — Thư của M. Vannier gửi M< Baroudel, kiểm sát viên của Phái bộ Ngoại giao tại Macao, ngày 22 tháng 7 năm 1824 76
LXV. — Thư của M. E. Chaigneau gửi M. Baroudel, ngày 13 tháng 10 năm 1825. 77
LXVI. — Thư của M. Baroudel gửi M.E. Chaigneau, ngày 23 tháng 11 năm 1825. 78

Các bức thư là những trao đổi cá nhân giữa các giáo sĩ, hoặc các ghi chép cá nhân, được lưu trữ ở thư viện Vatican và văn khố hội Thừa Sai Paris.
Những thông-tin trong thư hoàn toàn mang cách đánh giá cá nhân, vì vậy, thông tin các cụ coi như tham khảo, để đọc và có một góc nhìn sâu hơn về 1 giai đoạn Lịch sử.
Do văn phong các giáo sĩ là văn phong ngôn ngữ nhà thờ, có thư bằng tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Latin...nên khi dịch, em cố giữ lại văn phong gốc, nhưng sẽ có chú thích cho rõ.
Do trình độ ngoại ngữ tiếng Pháp, Tây Ban Nha và Latin rất ngu dốt, văn phong quê mùa, trình độ hạn chế, mong các cụ lượng thứ.
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cụ Đốc dịch từ văn bản gốc à, e có quyển pdf này, "NHỮNG TÀI LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN THỜI GIA-LONG" đã dịch sẵn sang tiếng Pháp. Trong số các thư này, thư của GM Labousse có vẻ được giới sử học trích dẫn nhiều, đặc biệt cho các diễn biến xung quanh cuộc long tranh hổ đấu giữa nhà Tây Sơn và họ Nguyễn Gia Miêu ?


~~~

Mục lục: e dùng Gg translate cho nhanh, thấy sai lung tung :P

GIỚI THIỆU
I. — Sắc lệnh năm 1774 về Cơ đốc giáo 3
II. — Thư của M. La Bartette gửi M. Alary, ngày 24 tháng 7 năm 1780 ... 4
III. — Thư của M. La Bartette gửi M. Blandin, ngày 13 tháng 4 năm 1784. . . 5
IV. — Thư của M. Longer gửi M. Blandin, ngày 13 tháng 4 năm 1784 .... 6
V. — Thư của M. Le Roy gửi M. Blandin, hoàn thành ngày 6 tháng 12 năm 1786. 6
VI. — Thư của M. Sérard gửi M. Blandin, ngày 31 tháng 7 năm 1786 .... 9
VII. — Thư của M. La Bartette gửi M. Blandin, ngày 23 tháng 6 năm 1786. . . Г2
VIII. — Thư của M. La Bartette gửi M. Desourvières, một phần đề ngày 10 tháng 7, một phần đề ngày 1 tháng 8 năm 1786 14
IX. — Thư của M. Longer gửi M. Blandin, một phần đề ngày 26 tháng 7 năm 1786, một phần đề ngày 3 tháng 5 năm 1787 15
X. — Thư của M. Doussain gửi M. Blandin, ngày 6 tháng 6 năm 1787 .... 18
XI. — Thư của M. Doussain gửi M. Blandin, ngày 16 tháng 6 năm 1788. ... 19
XII. — Thư của M. Boisserand, ngày 11 tháng 8 năm 1789 20
XIII. — Thư của M. Lavoué gửi M. Boiret, ngày 10 tháng 10 năm 1790. ... 23
XIV. — Thư của M. Liot gửi M. Boiret, ngày 8 tháng 1 năm 1791 24
XV. — Thư của M. Lavoué [gửi M. ?], ngày 20 tháng 2 năm 1791 25
XIV. — Thư của M. Le Labousse, ngày 16 tháng 6 năm 1792 25
XVII. — Thư của M. Liot gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 18 tháng 7 năm 1792 28
XVIII. — Thư của M. Le Labousse gửi M. Boiret, ngày 26 tháng 6 năm 1793 ... 28
XIX. — Thư của M. Lavoué gửi M. Hody, ngày 31 tháng 7 năm 1793 29
XX. — Thư của M. Lavoué gửi M. Blandin, ngày 1 tháng 8 năm 1793 .... 29
XXI. — Thư của M. Létondal, ngày 20 tháng 12 năm 1793 30
XXII. — Thư của bà d'Adran, ngày 16 tháng 6 năm 1794 31
XXIII. — Thư của Giám mục Gortyn, ngày 22 tháng 4 năm 1794 .... 32
XXIV. — Thư của M. Lavoue gửi MM. Boiret và Desourvières, ngày 13 tháng 5 năm 1795 32
XXV. — Thư của M. Le Labousse gửi M. Létondal, ngày 22 tháng 6 năm 1795. . 35
XXVI. — Thư của M. Gire gửi MM. Boiret, Chaumont và Blandin, ngày 12 tháng 1 năm 1796 35
XXVII. — Thư của M'1 d'Adran gửi cho kiểm sát viên của Phái bộ Ngoại giao ở Macao, ngày 12 tháng 6 năm 1796 36
XVIII. — Thư của M. Le Labousse gửi M. Blandin, ngày 25 tháng 4 năm 1797. . . 37
XXIX. — Thư của M. Chaigneau gửi kiểm sát viên của Cơ quan đại diện nước ngoài tại Macao, ngày 10 tháng 6 năm 1798 37
XXX. — Thư của M. Liot, ngày 25 tháng 6 năm 1799 38
XXXI. — Thư của M. Le Labousse gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 24 tháng 4 năm 1800 38
XXXII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Barisy, ngày 2 tháng 3 năm 180 1 . ... 39
XXXIII. — Thư của M. Barisy gửi M. Létondal, ngày 1 tháng 4 năm 1801 40
XXXIV. — Thư của M. Barisv gửi “Monsieur Létondal hoặc Marquini”, ngày 16 tháng 4 năm 1801 43
XXXV. — Thư của M. Le Labousse gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 20 tháng 4 năm 1801 45
XXXVI. — Thư của Mgl La Bartette gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 27 tháng 6 năm 1801 47
XXXV11. — Thư của M. Barisy gửi cho MM. Marquini và Létondal, ngày 16 tháng 7 năm 1801 47
XXXVIII. — Thư của M. Langlois gửi M. Boiret, ngày 3 tháng 9 năm 1802. . . 55
XXXIX. - Thư của Mer La Bartette gửi ông Chaumont, ngày 17 tháng 9 năm 1803 57
XL. — Thư của bà La Bartette gửi M. Foulon, ngày 15 tháng 4 năm 1804. • 5 7
XLI. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Létondal, đề ngày 1806 hoặc 1807. . 58
XLII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Létondal, ngày 6 tháng 6 năm 1807. . . 59
XLIII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Létondal, ngày 12 tháng 5 năm 1808. . . 60
XLIV. — Thư của M. Audemar, ngày 28 tháng 4 năm 181 1 61
XLV. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Létondal, ngày 30 tháng 5 năm 1812. . . 6g
XLVI. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Baroudel, ngày 3 tháng 6 năm 1819. . . 62
XLVII. — Thư của M. Vannier gửi M. Baroudel, ngày 15 tháng 6 năm 1819. . • 62
XLVII. — Thư của Mfr La Bartette gửi M. Baroudel, ngày 5 tháng 6 năm 1820. . . 63
XLIX. — Thư của M. Vannier gửi M. Baroudel, ngày 13 tháng 7 năm 1820. . . 63
L. — - Thư của M"r La Bartette gửi M. Baroudel, ngày 13 tháng 6 năm 1821. . 65
LI. — Thư của M*r La Bartette gửi M. Breluque, ngày 27 tháng 7 năm 1821. 65
LII. — Thư của M. Vannier gửi M. Baroudel, ngày 2 tháng 8 năm 1821. ... 66
LIII. — Thư của M. Taberd gửi M. del Bissachère, ngày 8 tháng 10 năm 1821. 68
LIV. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Breluque, ngày 10 tháng 10 năm 1821. 69
LV. — Thư của bà La Bartette và M. Jarot gửi các giám đốc của Séminaire de Paris, ngày 7 tháng 10 và 12 tháng 10 năm 1821. . 70
LVI. — Thư của M. Chaigneau gửi M. de la Bissachere, đề năm 1821. . . 71
LVII. — Thư của M. Baroudel gửi M. Vannier, ngày 26 tháng 1 năm 1822. . 72
LVIII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Baroudel, ngày 25 tháng 6 năm 1822. . . 72
LIX. — Thư của M. Vannier gửi M. Baroudel, ngày 20 tháng 7 năm 1822. . . 73
LX. — Thư của bà La Bartette gửi cho ông de la Bissachère, ngày 29 tháng 12 năm 1822 73
LXI. — Thư của M. Chaigneau gửi M. Baroudel, ngày 23 tháng 5 năm 1823. . 74
LXII. — Thư của M. Chaigneau gửi M. de la Bissachère ngày 11 tháng 11 năm 1823 74
LX1II. — Thư của M. Taberd gửi các giám đốc chủng viện Paris, 1823,.... 76
LXIV. — Thư của M. Vannier gửi M< Baroudel, kiểm sát viên của Phái bộ Ngoại giao tại Macao, ngày 22 tháng 7 năm 1824 76
LXV. — Thư của M. E. Chaigneau gửi M. Baroudel, ngày 13 tháng 10 năm 1825. 77
LXVI. — Thư của M. Baroudel gửi M.E. Chaigneau, ngày 23 tháng 11 năm 1825. 78
Vâng cụ, em dịch bản gốc , cũng đối chiếu bản này đấy cụ, bản này có phần bổ -sung rõ hơn của linh mục Cardiere, ông linh mục này hình như có nghiên cứu về mộ Quang Trung, địa điểm và phần mộ, nhưng không rõ vì sao tài liệu thất lạc.
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,573 Mã lực
Các thư tín của các tu sỹ Phương Tây thời kỳ này khá sinh động, mà sách vở tiếng Việt chỉ trích dẫn (citation) chứ chưa có bản dịch chính thức. Cụ dịch cẩn thận rồi đem in thành sách là đẹp, ko để lâu lại mất thì toi công ;))

Vâng cụ, em dịch bản gốc , cũng đối chiếu bản này đấy cụ, bản này có phần bổ -sung rõ hơn của linh mục Cardiere, ông linh mục này hình như có nghiên cứu về mộ Quang Trung, địa điểm và phần mộ, nhưng không rõ vì sao tài liệu thất lạc.
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Các thư tín của các tu sỹ Phương Tây thời kỳ này khá sinh động, mà sách vở tiếng Việt chỉ trích dẫn (citation) chứ chưa có bản dịch chính thức. Cụ dịch cẩn thận rồi đem in thành sách là đẹp, ko để lâu lại mất thì toi công.

Khi cần in ấn thành sách (tối thiểu 200 cuốn/lần), nếu cần, em sẽ hỗ trợ, vô tư hết mình, đảm bảo sách ra pro như sách bán ở Fahasa luôn :)
Em sẽ tập hợp vài bản dịch chuẩn hơn, dịch phục vụ các cụ of thì có thể chú thích hơi hài hước, chứ nếu in sách thì phải nghiêm túc, hehe.
 

hd-vt

Xe container
Biển số
OF-384916
Ngày cấp bằng
30/9/15
Số km
9,273
Động cơ
323,171 Mã lực
Tuổi
58
Em sẽ tập hợp vài bản dịch chuẩn hơn, dịch phục vụ các cụ of thì có thể chú thích hơi hài hước, chứ nếu in sách thì phải nghiêm túc, hehe.
Hài hước hehe. Cụ là Ofer mẫu mực, thông tuệ mà vẫn thích hài hước.
Em chả hiểu nhiều bố tính khó ở, như có nhọt ở mông, ăn phải gì khó tiêu nhăn nhó mà cứ vào đây làm gì không biết.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hài hước hehe. Cụ là Ofer mẫu mực, thông tuệ mà vẫn thích hài hước.
Em chả hiểu nhiều bố tính khó ở, như có nhọt ở mông, ăn phải gì khó tiêu nhăn nhó mà cứ vào đây làm gì không biết.
Thì đôi khi trong lúc dịch,em vẫn chọn cách diễn đạt nó dễ hiểu và hài hước một chút. Tất nhiên là ở vài bản dịch khác thôi, chứ bản dịch này thì không có cụ ạ.
Em vẫn đang muốn dịch thêm vài cuốn nữa, nhất là các sách mô tả về nước ta thời Lý-Trần, của sứ thần Trung Quốc, nhưng việc nó cứ bận nên rảnh mới ngồi ngồi đọc bản gốc được cụ ạ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư Ông Lavoué Gửi Ông Boiret và Desourvières ở Paris

Tân-triều [ Đồng Nai], Hạ Nam Kỳ, ngày 13 tháng 5 năm 1795

Tôi sẽ nói gì với ông về Nam Hà? Công việc của nhà vua [Ánh] vẫn đang trong tình trạng rất tồi tệ. Hai tác giả của cuộc cách mạng, cụ thể là Nhạc và Long-nhương, đã trở thành chủ nhân của cả vương quốc, nhưng họ lại [ sớm thất bại] và kết thúc bằng việc tự tuyên chiến với nhau. Nhạc tự hào [nhưng lại]. ... bị đánh bại và buộc phải bằng lòng với [việc giữ được] 7 tỉnh.... Nhà vua . . ., trở về Gia-định chiếm lấy.... Nhạc không dám vào đánh [Ánh], sợ sự vắng mặt [sẽ làm cho quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ] vội vào Qui-nhơn lấy của báu cất giấu nơi này, là vật duy nhất củng cố cho địa vị anh ta đã có sau đó.

[ Thư bị xóa nhiều đoạn, nên nội dung không rõ và đầy đủ]

Hai năm sau. . ., Vua [ Ánh] đi. . .. tấn-công kẻ thù của mình. ... đốt cháy gần tất cả thủy quân của Nhạc, [ gây cho Nhạc thiệt hại] đáng kể. Cú tấn công táo bạo này phần nào khiến kẻ nổi loạn kiêu-hãnh này [Nhạc] bối rối, kẻ cho đến trước lúc bị đánh tan đội thủy quân thì tỏ ra khinh-thường quân của Nhà vua; nhưng [Ánh] còn hơn thế nữa khi, vào năm sau, điều động cả hoàng tử [Cảnh] xuất hiện [ trên chiến trường] với một đội quân đáng kể bằng đường bộ và đường biển.

[ Thư bị xóa nhiều đoạn, nên nội dung không rõ và đầy đủ]

[Nhạc] tự giam mình trong thành phố và họ [quân Nguyễn] bao vây không mấy khó khăn. Cuộc bao vây kéo dài do lỗi của Nhà vua, lẽ ra [cuộc tấn công sẽ] diễn ra nếu ông nghe theo lời khuyên của một số người châu Âu mà ông có trong lực lượng của mình. Nhưng, nhìn thấy một số lượng rất lớn binh lính hàng ngày đến xếp hàng dưới màu áo của mình, ông [Ánh] tưởng tượng rằng thành phố sẽ mở cổng ngay lập tức và tự đầu hàng.

Điều ngược lại đã xảy ra. Nhạc, người có mâu-thuẫn với cháu trai của mình [ Cảnh Thịnh, vì người em trai Long Nhương đã chết], đành phải xin hòa, yêu cầu và muốn [quân Cảnh Thịnh] giúp đỡ, điều này buộc Nhà vua [Ánh] phải dỡ bỏ vòng vây và rút lui nhanh chóng về các tỉnh phía dưới của Nam Hà. Lực lượng tiếp viện này, bao gồm 30.000 người [Theo một bức thư của ông Le Labousse gửi cho ông Boiret, ngày 13 tháng 5 năm 1795, thì quân Cảnh Thịnh có từ 50 đến 60 nghìn người, lưu trữ Văn khố M-E, 746, tr. 472] đã đến cổng thành, [ quân Cảnh Thịnh] vô cùng ngạc-nhiên khi thấy chúng đã đóng lại. Các tướng lĩnh [ Tây Sơn] tuyên bố rằng họ sẽ không rút lui cho đến khi họ [gặp mặt và] chào Hoàng đế Nhạc, người đã gọi họ đến trợ-giúp; rằng họ là bạn và sẽ không thể bị coi là kẻ thù; rằng các cánh cổng thành sẽ phải được mở ra, nếu không họ quyết tâm dùng vũ lực chống lại chính Hoàng đế; và rằng họ sẽ phá tan chúng ra.

Nghe thấy những lời tuyên bố này, Nhạc thấy rõ mình sắp bị truất ngôi; nhưng, vì không còn đủ lực-lượng để kháng-cự lâu hơn, ông quyết định chặn cuộc tấn công [ của Cảnh Thịnh]. Do đó, ông đã cho mở cổng thành, mời các quan [Tây Sơn vào] đầu tiên và tuyên bố với họ rằng ông sẽ trao vương miện cho họ và quyết tâm sống như một người dân bình dị. Lúc đầu, họ từ chối và cầu xin ông [cứ] ngồi trên ngai vàng của mình để nhận được sự cứu giúp của họ, nhưng ông không bao giờ [còn có thể] làm thế. Do đó, cháu trai của ông đã trở thành chủ nhân của gần như toàn bộ Nam Hà.

Nhạc qua đời vài tháng sau đó trong đau buồn và xấu hổ.

Nhà vua [Ánh] trở về Gia-định nơi mà ông đã chiếm được đầu tiên. Ông rèn luyện bản thân hết mức có thể, xây dựng các xưởng đóng tàu chiến, chế tạo vũ khí v.v., và mời ông Olivier, một sĩ quan người Pháp, xây dựng cho một thành phố kiểu châu Âu ở một trong những tỉnh mới bị chinh phục. Ngay tại đây thì chiến tranh gần như chưa kết thúc khi quân nổi dậy lên tới 40.000 quân, quyết tâm mở rộng quy mô; nhưng mọi nỗ-lực của họ [Tây Sơn] đều vô ích, và họ buộc phải nới vòng vây và rút lui về Qui-nhơn, nhà vua [Ánh] lại [ra Quy Nhơn] tiến công họ bằng đường bộ và đường biển và hai tháng sau, họ lại đến bao vây thành phố [Gia Định], nơi đã chế nhạo họ. Họ đã phong tỏa thành phố trong bốn tháng, nhưng hy vọng rằng Nhà vua [Ánh], người vừa chiếm lĩnh [được một số vùng đất mới từ tay Tây Sơn], sẽ có thể giải cứu [ Gia Định] kịp thời và buộc họ [Tây Sơn] phải rút lui một lần nữa. Rất vui nếu ông có thể đánh bại họ hoàn toàn và giành lại vương quốc của mình Năm nay, tất cả mọi người đều khao khát điều đó, tin chắc rằng nếu cuộc chiến này kéo dài thêm một thời gian nữa, Nam Hà sẽ bị tàn phá hoàn toàn. . ..

Tôi đã đến từ các tỉnh phía trên [Nam Hà] [tức là các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên] . . .. Tôi chỉ có thể ở đó vài tháng. . .. Quân nổi dậy đã chiếm lại tất cả các tỉnh này mà không gặp khó-khăn gì và hầu như không phải giao tranh. ...Bây giờ tôi đang ở trường [ tức là chủng viện] . . ..

Có lẽ ông sẽ không tiếc khi biết số lượng Cơ đốc nhân mà chúng tôi có ở các tỉnh mà Nhà vua đã tiếp quản và tôi quản lý.

Bình-thuận, hay vương quốc Ciampa [Chăm Pa], không còn như xưa nữa. Bây giờ nó được coi là một tỉnh của Nam Hà và không còn vua nữa. Thống đốc là người Nam Hà và có cùng thẩm quyền đối với người bản xứ [người Chăm Pa] cũng như đối với người Nam Hà, những người đã đến định cư với số lượng lớn ở vùng này. Người bản địa [Chăm] cũng có quan lại của họ và chỉ có thẩm quyền giải quyết với dân những công việc bình thường; nhưng khi đó là một câu hỏi về một số nguyên nhân hay sự vụ nghiêm-trọng, thì cần phải nhờ đến thống đốc [người Việt]. Chúng tôi đếm không quá 1.200 Cơ đốc nhân ở đó. . .. Nhìn chung, tỉnh này có dân cư thưa thớt, nhiều rừng và sa mạc. . ..

Nha-trang là một tỉnh nhỏ chu vi không quá 25 lý. . .. bảy [vùng] Kitô giáo. . . có 11.550 đến 11.560 [Cơ đốc nhân] . . .. khi tôi tới đó. Tôi ở đó năm tháng với Giám mục Bá Đa Lộc, người, theo yêu cầu của Nhà vua, đã tháp tùng hoàng tử [Cảnh] đến đó. Quân nổi dậy đã nhanh chóng tiến đến với một đội quân hùng mạnh, chúng tôi tự đóng cửa nhà mình trong thành phố. Kẻ thù đã bao vây chúng tôi trong 24 ngày và nã vào phía chúng tôi 900 phát đại bác. Nhưng nhận thấy rằng họ [Tây Sơn] không bao giờ có thể chiếm được vị trí [của Cảnh], họ đã rút lui mà hầu như không gây thiệt hại gì.

[Trong một bức thư gửi cho cha mẹ mình vào ngày 29 tháng 7 năm 1795, điều tương tự cũng nói rằng cuộc bao vây kéo dài 20 ngày và bị quân Tây Sơn nã 960 phát đại bác, Archives M-E, 746, tr. 520. Trong một bức thư của ông Le Labousse ngày 12 tháng 7 năm 1796, nói rằng trên các bức tường của tòa thành này, quân Nguyễn đã đặt một số "khẩu súng thần công bằng gỗ được sơn kỹ lưỡng" mà Bá Đa Lộc đã đặt ở đó để áp đặt [đánh lừa] [về sức mạnh] trên kẻ thù. Đối với những khẩu súng thật cũng có, theo lời khuyên của giam mục Bá Đa Lộc, tuy nhiên chúng không được sử dụng, Archives M-E, 746, tr. 557I].

(Thật đáng tiếc cho quân Tây Sơn, vì họ đã bị số vũ khí rỏm mà Bá Đa Lộc cho trưng lên mặt thành đánh lừa, nếu họ tấn công mạnh và liên tục có lẽ Cảnh và Lộc cũng tàn đời tại đây)

Bình khang [nay là Ninh Hòa] . . .. to hơn. . .. ít dân cư hơn nhiều. . .. Trước đây nó là dinh thự của một thống đốc hiện đang ở Nha-trang.... [có] 250 Cơ-đốc nhân.

Phú-yên.... phì nhiêu dân cư đông đúc, có một viên tổng đốc.... Tôi mới ở đó được hai tháng rưỡi thì Tây-sơn đến chiếm lại. Tôi rút lui ngay lập tức, theo mệnh lệnh mà tôi đã nhận được từ cha Bá Đa Lộc. Chúng tôi vẫn còn 6.000 Cơ đốc nhân ở đó. . ..

[Lưu trữ Văn khố M-E, 746, tr. 464-470.]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Le Labousse, gửi ông Létondal, kiểm sát viên của Phái bộ truyền giáo ở Macao.

Sài Gòn, ngày 22 tháng 6 năm 1795

[Giáo sĩ Létondal Claude-François, thuộc giáo phận Besançon, rời đi truyền giáo vào ngày 12 tháng 3 năm 1785, là phó kiểm soát viên ở Macao từ 1785 đến 1788, kiểm soát viên từ 1788 đến 1813. Ông đã thành lập, với số tiền quyên góp được ở Philippines và Mexico, Đại chủng viện Pinang. Ông qua đời ở Pondicherry vào ngày 17 tháng 11 năm 1813, khi đang tìm kiếm các nguồn lực mới cho trường này]

[Gia-long] đang ở trong tình trạng rất tồi tệ .... Đây là [vì] tất cả những người châu Âu đang rời đi. Tôi e rằng đó là đội tiên phong của chúng ta.... Đức ông [Bá Đa Lộc] đã chuẩn bị sẵn một chiếc thuyền tốt. . .. [ để rời đi]

Ông sẽ thấy ông Olivier đến Macao cùng với ông Dayot, người phải chạy khỏi tàu của mình khi đến cảng Saint-Jacques [ Vũng Tàu]. Chuyến đi này có thể sẽ phải trả giá đắt để phục vụ Nhà vua [Ánh]. [ ý nói nếu quân Tây Sơn tóm được thì sẽ trả giá đắt do đã phục vụ Ánh]

Trên tàu của ông Olivier là ông Chaigneau, người nước tôi [ Pháp]. Tôi sẽ giới thiệu anh ấy với ông: anh ấy là một thanh niên rất xứng đáng, bằng sự trung thực, dịu dàng, và kính Chúa của mình, anh ấy đã gây dựng cho chúng tôi rất nhiều điều; anh ấy tôn trọng nền giáo dục mà anh ấy đã nhận được. Anh ấy ra đi với sự tiếc nuối của chúng tôi. Ông sẽ sớm biết anh ấy. Trồng cây này hứa hẹn những trái tốt như vậy. Tôi rất hy vọng rằng anh ấy có thể tìm được cơ hội ở Macao để trở về Pháp, kẻo rong ruổi một thời gian dài, cuối cùng đức hạnh của anh ấy cũng phải chịu một vụ đắm tàu đáng tiếc như bao người khác. . .. [ ý đoạn thư nhờ giúp đỡ viên sĩ quan Pháp Chaigneau, người định bỏ Nguyễn Ánh ra đi, tình hình lúc này lại căng, do Ánh thấy đánh Tây Sơn tưởng dễ xơi, bèn trở mặt đểu cáng tính quỵt tiền và lời hứa tự do truyền đạo với Bá Đa Lộc và nhóm sĩ quan Tây. Lính, sĩ quan Tây và Lộc rất giận, bèn định bỏ đi, về sau, Ánh lại ngon ngọt dụ dỗ Lộc và nhóm sĩ quan Tây ở lại được]

[ Tôi] Cố gắng thuyết phục ông Olivier xưng tội, người lần đầu tiên cho phép cử hành Lễ Vượt Qua cuối cùng mà không tiến hành các bí tích. Anh ấy là một đứa trẻ ngoan và có nền tảng tốt về tôn giáo, nhưng anh ấy hơi nóng tính và là một chàng trai trẻ. . .. Đừng quên các thủy thủ Pháp đang ở bên cạnh anh ta: họ đã "tất cả, trừ một người, đã mang lại cho chúng tôi một số niềm an ủi trong thời gian gần đây.

[Lưu trữ Archives M-E, 801, p. 601-603.]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Gire gửi các ông Boiret, Chaumont và Blandin ở Paris

Kẻ-hương [còn gọi là Mỹ Hương, một vùng Công giáo ở phía Nam Quảng Bình], Thượng Nam Hà, ngày 12 tháng 1 năm 1796.

(Nhận tại Luân Đôn ngày 7 tháng 2 năm 1797)

[giáo sĩ Gire Pierre, thuộc giáo phận Le Puy, truyền giáo ở Nam Hà, rời đi ngày 11-12-1789, mất ngày 20-6-1804].

Ở đây chúng tôi vẫn còn dưới ách thống trị của Tây-sơn, và chúng tôi không biết khi nào sẽ kết thúc. Cái chết của Quang-trung vào tháng 9 năm 1792 và sau đó là cái chết của Thới đức [Thái Đức] [ Nguyễn Nhạc] vào tháng 12 năm 1793, dường như để tuyên bố sự kết thúc của chế độ chuyên chế này. Suy nghĩ của con người là lừa dối: chúng ta vẫn không thấy gì về những điều chúng ta tin là chắc chắn. Cảnh-thạnh [ Cảnh Thịnh], [một đứa trẻ mới] 10 đến 11 tuổi, đã thống nhất trong người mình uy quyền của cha mình là Quang-trung và cả của bác mình là Thái-đức Hoàng-đế [ đoạn trích từ một bức thư tương tự, viết cho cha mẹ giáo sĩ, và đề ngày 11 tháng 1 năm 1796, trong đó các sự kiện tương tự được kể lại gần như giống hệt nhau]. Các quan cai trị nhà nước [Tây Sơn] và gây tự chiến [với nhau] dưới danh nghĩa bạo chúa trẻ tuổi, mà không nghĩ đến việc đứng về phía nhà vua hợp pháp [ Nguyễn Ánh]. Điều này dường [ là cơ hội tốt] để có thể đánh đuổi kẻ thù của ông khỏi toàn bộ vương quốc trong một số trường hợp mà ông không tận dụng được. Vào tháng 8 năm ngoái, ông đã dỡ bỏ cuộc bao vây Nha Trang, vốn đã bắt đầu từ tháng 1. Kẻ thù của ông buộc phải bỏ chạy, bị mất nhiều đại bác, vũ khí và nhiều người trong chiến dịch. Không mở được đường qua Quy-nhơn do lực lượng mạnh trấn giữ, họ buộc phải luồn rừng; tuy nhiên, họ có thể rút một phần quân đội và voi của họ từ đó. Họ vẫn có thể thành lập một đội quân mạnh cho chiến dịch tiếp theo. Họ sẽ khó chinh phục Đồng-nai; cũng có thể Nhà vua sẽ khó đánh đuổi hết bọn phản loạn.... Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thiết tha mong chờ sự xuất hiện của Nhà vua. . ..

Tại thời điểm này tất cả chúng tôi đang tận hưởng hòa bình cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Từ khi bắt và trừng phạt d’ông thới sứ [ để nguyên văn, có lẽ là Ông Thái Sư, tức là Thái Sư Bùi Đắc Tuyên] và những người cộng sự chính của ông ta, dường như không ai để ý đến chúng tôi. Các quan đều bận rộn với công việc kinh doanh của họ; họ vừa chọn ba người trong số họ để nắm quyền điều hành triều đinh. Họ đều là ba người đàn ông yêu hòa bình, dũng cảm và được nhân dân quý trọng. ...

[Năm 1792, Quang Trung mất, nhường ngôi lại cho con là Cảnh Thịnh. Dưới triều vua mới, Đắc Tuyên được cử làm Thái sư, nhờ trước đây ông thường bày nhiều trò chơi để mua lòng Quang Toản. Ở ngôi cao, Đắc Tuyên thường hay chuyên quyền độc đoán, cho nên trong hàng ngũ tướng sĩ Tây Sơn, có nhiều người bất bình với ông. Trong cung đã có Bùi Thái hậu, nơi triều lại có lắm đại thần nghiêng theo chiều gió, như Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng... nên thế lực của Thái sư Tuyên rất vững. Đắc Tuyên mỗi ngày mỗi thêm lộng hành. Những quan nào theo Đắc Tuyên thì được ưu đãi, những quan nào ra mặt chống thì bị hại, những người nào có ý chống thì bị đẩy ra làm quan xa, như:

- Võ Văn Cao, người Phú Yên, làm Quốc Tử Giám trực giảng, được thăng Thái tử Trung doãn đời Quang Trung. Tính cương trực, không chịu nổi thái độ và hành vi của Đắc Tuyên, nhân về cư tang cha mẹ, ở nhà cày ruộng. Võ Văn Cao có làm nhiều bài thơ chê Đắc Tuyên là gian thần, Tuyên rất giận. Khi Võ Cao chết, Đắc Tuyên bảo là giả chết bắt phá quan tài ra xem, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng phải can thiệp mới được miễn.

- Trần Long Vỹ, người Hoài Ân, Thị lang bộ Lễ, cùng Đắc Tuyên là bạn đồng sự triều Quang Trung. Nhân lúc cao hứng làm một bài thơ Nôm (Huề Mầm Thăng Huề Thượng), ngụ ý châm biếm Đắc Tuyên, nên bị Tuyên tìm cớ cách chức.

- Đinh Sĩ An, người Bình Khê, thi đậu khoa Minh Kinh, được bổ vào Nội các làm Hàn lâm viện Đãi chiếu. Vì thường qua lại cùng Trần Long Vỹ nên cũng bị Tuyên ghét đuổi về nhà.

Những người trước kia theo Đắc Tuyên như Ngô Văn Sở, Lê Văn Hưng... cũng không chịu nổi hành vi của Tuyên. Nhiều khi họ tỏ thái độ bất bình, bị Đắc Tuyên tìm cơ hội trừ khử.

Nhân việc Lê Văn Hưng sau khi thắng trận ở Phú Yên, giao thành cho Nguyễn Quang Huy giữ, đem quân về Phú Xuân, Tuyên bắt tội là không thỉnh mệnh trước, tỏ ý muốn làm phản, tâu vua chém đầu răn chúng. Cảnh Thịnh nghe lời. Ngô Văn Sở can, nhưng không được. Quan Phụ chính Trần Văn Kỷ can thiệp, Đắc Tuyên nổi giận giáng chức, đày ra coi trạm Hoàng giang. Sau đó Thái sư Tuyên lại sai Ngô Văn Sở ra Bắc Hà thay cho Vũ Văn Dũng và gọi ông này về Phú Xuân. Dũng về đến Hoàng giang thì gặp Trần Văn Kỷ. Trần Văn Kỷ khuyên Dũng nên sớm trừ Đắc Tuyên kẻo bất lợi cho xã tắc và bản thân. Dũng vốn tin và trọng Trần Văn Kỷ, liền nghe theo. Vì vậy, đến Phú Xuân, Dũng không vào triều, mà lại mật cho mời Thái úy Phạm Công Hưng và Thái bảo Nguyễn Văn Huấn tới bàn mưu giết Đắc Tuyên. Nhận thấy rõ lòng dạ Đắc Tuyên, hai viên tướng trên hưởng ứng ngay. Đêm đến, cả ba viên tướng trên kéo quân vây dinh Thái sư ở chùa Thiền Lâm [ phía Nam sông Hương]. Chẳng ngờ đêm ấy Đắc Tuyên có việc ngủ trong cung vua. Quân nổi dậy liền vây luôn cả cung và đòi Cảnh Thịnh phải đưa Tuyên ra. Không thể cản ngăn được, Thịnh buộc phải bắt Đắc Tuyên giao nộp.

Hạ ngục Đắc Tuyên xong, Võ Văn Dũng liền cho Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn bắt con Đắc Tuyên là Bùi Đắc Trụ đang giữ việc quân ở nơi ấy, một mặt giả chiếu ra Bắc Hà bắt luôn Ngô Văn Sở. Giải hết về Phú Xuân xong, Võ Văn Dũng phao cho cha con Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở, tội mưu phản, đem đóng cũi nhốt rồi dìm xuống sông Hương cho đến chết].

[Lưu trữ Archives M-E, 746, p. 549-552.]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của Đức Ông Bá Đa Lộc gửi kiểm soát viên phái bộ truyền giáo tại Macao

Ngày 12 tháng Sáu năm 1796

Ông Chaigneau trở lại Macao vì công việc làm ăn của mình. Người đàn ông này cư xử rất tốt ở đây. Tôi ân hận và muốn anh ta quay lại. Ông sẽ làm tôi rất vui khi cho anh ta tị nạn tại Procure. Chi phí cho anh ta ông đừng ngại: anh ấy sẽ trả những gì ông làm giúp anh ấy. Nếu anh ấy về Nam Hà, tôi sẽ không cho ở đâu ngoài chỗ của tôi....

[ Thấy Ánh rất gian-xảo, tính bài quỵt và thái độ không tốt khi xong việc, nên sĩ quan Pháp Chaigneau đã quyết bỏ đi, thư này Lộc gửi cho phái bộ truyền giáo ở Macao nhờ giúp đỡ Chaigneau, tuy nhiên không hiểu sao sau này Lộc lại gọi Chaigneau quay về]

[Lưu trữ Archives M-E, 801, p. 66 1.]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Le Labousse gửi ông Blandin ở Paris

Sài Gòn, ngày 25 tháng 4 năm 1797

.... Nhà vua vừa rời đi với một đội quân đáng gờm cho một cuộc viễn chinh mà có lẽ sẽ mang tính chất quyết định. Hải quân bao gồm gần 600 tàu chiến có buồm; hai tàu châu Âu đứng đầu trong số 40 chiếc của cả vương quốc. Tôi không đếm nổi những chiếc thuyền, phương tiện vận chuyển, v.v., rất nhiều.

Cả bộ và trên biển có 40.000 quân, hoàng tử [Cảnh] vào Huế để dẹp giặc ở đó với một nửa thủy binh. Nhà vua [Ánh] gửi con trai của mình cùng với nửa còn lại để tấn công Bắc Hà, nơi ông đang háo hức chờ đợi [ tin thắng trận]. Đức ông [ Bá Đa Lộc] đi cùng với gia đình hoàng gia [ tức gia đình Nguyễn Ánh]. Nhà vua đã làm mọi cách để xác định điều đó. Khi được Đức cha đồng ý, vua đã đề nghị cho Đức cha giữ vị trí quan trọng nhất trong vương quốc. Đức ông trả lời vua rằng ông không đến đây để tìm kiếm danh giá hay sự giàu có, và cảm ơn nhà vua. Các quan bị ấn tượng bởi sự vô tư như vậy. Ông Boisserand đi theo Đức ông trên hành trình này. . .. [ bức thư còn thiếu so với bản gốc] [ Bá Đa Lộc cũng đề cập đến vấn đề tháp tùng Hoàng tử Cảnh trong những chuyến đi trên biển tấn công Tây Sơn của ông, trong một bức thư gửi cho Thánh bộ Tuyên truyền ngày 12 tháng 4 năm 1797, Archives M-E, 746, tr. 627-630].
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Chaigneau gửi kiểm sát viên của phái bộ truyền giáo hội thừa sai tại Macao

Sài Gòn, ngày 10 tháng 6 năm 1798

Thưa Quý ngài,

Tôi không thể nói hết lòng biết ơn về lòng tốt mà ông đã tử tế để làm những việc lặt vặt cho tôi. Tôi rất biết ơn ông.

Tôi rất muốn bạn thực hiện công việc mà ông đã thực hiện vào năm ngoái và dự định mà ông đã nói với tôi nhiều lần; ông dường như muốn đến Nam Hà trong năm nay, trước khi ông khởi hành đến Manila. Điều đó sẽ rất dễ dàng đối với ông, và ông có thể đi từ đây đến Manila, vì cách đây vài ngày, ở dưới sông có một chiếc tàu nhỏ của Bồ Đào Nha rời đi Manila, và ông có thể dễ dàng kiếm được một chỗ từ đó. Điều đó sẽ không làm xáo trộn kế hoạch của ông và sẽ khiến chúng tôi rất vui được gặp.

Việc của Vua [ Ánh] vẫn như cũ. Ông ấy đã bỏ lỡ một cơ hội tuyệt vời khác vào năm ngoái. Ông đã có thể chinh-phục đất nước của mình rất dễ-dàng. Ông đến chỗ quân địch đang chia-rẽ và không hề ngờ tới nên mất cảnh giác, nhưng không biết lợi dụng. Sau chiến dịch cuối cùng này, tôi rất nghi-ngờ rằng Nhà vua sẽ làm chủ đất nước của mình.

Tôi hy vọng ông có một chuyến đi tốt đẹp và thành-công theo mong muốn, và thành công đó sẽ giúp ông nhanh chóng quay trở lại Ma Cao và mang đến cho chúng tôi tin tức bằng những chuyến tàu đầu tiên.

Tôi rất chân thành, thưa ngài, người hầu rất khiêm tốn và rất ngoan ngoãn của ngài

J. B. Chaigneau.

Ngày 10 tháng 6 năm 1798, Sài Gòn.

[Archives M-E, 801, p. 729-731.]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Liot, từ Sài Gòn, ngày 25 tháng 6 năm 1799

Ông Le Labousse, người đang ở Nha Trang với Đức ông [ Lộc] ... chắc chắn cũng cho ông biết tin chiến sự; vì ông ấy biết họ trực tiếp. Tuy nhiên, tôi sẽ nói với ông hai điều:

1. Ông Monseigneur, bị nhà vua nài nỉ nhiều lần, thấy mình buộc phải tháp tùng hoàng tử đến Nha Trang vào tháng 12 năm 1798. Nhà vua đi cùng đội ngũ tấn công hơn một tháng rưỡi. Tin tức mới nhất nhận được ở đây đã bốn ngày, báo rằng 20 ngày trước nhà vua đã vây thành Quy-nhơn, để lại một số quân ở đó trừ những người thuộc hạ thân tín của mình, cùng hoàng tử và Đức ông đi vào giới hạn của tỉnh Quảng ngãi, nơi ba kho đã bị chiếm lấy, gồm một kho chứa tiền và hai kho chứa gạo; rằng ở trấn 2. Quy-nhơn có 15.000 lính Tây-sơn, nhưng họ chỉ có lương thực trong 20 ngày; và một số quan lại và binh lính Tây-sơn đã đầu hàng nhà vua, sớm muộn gì thành Quy Nhơn cũng rơi vào bàn tay quyền lực của ông ta [Ánh].

[Archives M-E, 746, p. 770-771.]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Le Labousse gửi Giám Đốc Chủng Viện Paris, phụ trách chủng viện Đồng-nai, ngày 24 tháng 4 năm 1800

Ông ta [Gia-Long] đã thành công trong việc chế tạo, chỉ với riêng người Nam Hà của mình, những chiếc tàu chiến theo phong cách châu Âu. Ông bắt đầu bằng cách tháo rời từng mảnh một chiếc tàu cũ đã mua; ông đã đóng lại nó một lần nữa với kỹ năng đến mức nó đẹp hơn trước. Thành công đầu tiên này đã khuyến khích ông thực hiện đóng một chiếc tàu chiến mới, và ông thành công. Kể từ đó, ông đã chế tạo thêm hai chiếc nữa. Bốn con tàu này sẽ ghi công cho ông ở khắp mọi nơi. Ông thực hiện chúng với tốc độ chóng mặt: không quá ba tháng tại xưởng đóng tàu; thậm chí còn ít hơn. Tuy nhiên, tàu chiến mới này có kích thước đẹp và khả năng mang theo một số lượng 26 khẩu đại bác, số khác có thể trang bị 36 khẩu; mỗi tàu có hơn 300 thủy thủ đoàn. Con tàu le Phœnix [Phượng hoàng] do ông Vannier chỉ huy [Vannier quê ở Auray xứ Brittany; phân biệt rất rõ ràng với M. Dayot de Rhedon trong trận đánh ở cửa cảng Qui-nhơn bảy năm trước], người thứ hai là ông Renon [ Renon đến từ Saint-Malo]; tàu l'Aigle do ông de Forçanz chỉ huy [de Forçanz đến từ Hạ Brittany], và chiếc le Dragon-volant [Rồng bay] do Chaigneau chỉ huy [Chaigneau đến từ Château de Baizy ở Plumergat, gần Sainte-Anne]. Con tàu La Perle vừa được hạ thủy sẽ do đích thân Nhà vua chỉ huy.

Ông là vị vua vĩ-đại nhất mà Nam Hà có được cho đến nay. Đức ông [Lộc] và vị hoàng tử [Ánh] này là hai người đàn ông phi-thường, những ký ức vinh-quang của họ sẽ được lưu giữ vĩnh-viễn trong sự huy-hoàng của vương quốc này. Thế kỷ của họ sẽ tạo nên một kỷ nguyên ở đó. Chúng ta sẽ ngạc nhiên khi đọc ở đó rằng vị vua có học thức cao nhất, xứng đáng trị vì nhất, sẽ có được hạnh phúc khi gặp được người có khả năng hướng dẫn và đào tạo mình nhất trong triều đình.

[Không nên quên rằng bức thư dài này đề ngày 24 tháng 4 năm 1800, chỉ vài tháng sau tang lễ trọng thể mà Gia-long đã cử hành cho Giám mục Lộc vào ngày 16 tháng 12 năm 1799. Thư này có vẻ tâng bốc Ánh quá mức]

[Archives M-E, 746, p. 869-872.]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
TÀI LIỆU CỦA DÒNG TU MẾN THÁNH GIÁ

Dòng Mến Thánh Giá [tiếng Pháp: Amantes de la Croix, tiếng Anh: Congregation of the Holy Cross Lovers] là một dòng tu dành cho nữ giới Công giáo do Giám mục Lambert de la Motte [Giám mục thuộc Hội Thừa sai Paris đầu tiên đến Việt Nam, sáng lập lần lượt ở Đàng Ngoài vào năm 1670, Đàng Trong năm 1671, và Xiêm La năm 1672.Hội dòng mở rộng sang Campuchia năm 1772, Nhật Bản năm 1878, và Lào năm 1887.

Đây là dòng nữ Công giáo đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Sang thế kỷ 21, dòng này phục vụ trong nhiều giáo phận ở Việt Nam. Mến Thánh Giá là dòng tu nữ đầu tiên mang bản sắc Á Đông, vừa chiêm niệm vừa hoạt động, có lời khấn, sống thành cộng đoàn theo một bản luật được gọi là "Hiến Chương Hội Dòng Mến Thánh Giá", trực thuộc quyền Giám mục sở tại và hướng về việc truyền giáo cũng như chuyên làm việc thiện-nguyện và giáo dục thanh thiếu niên.

Tài liệu của Dòng Mến Thánh Giá có rất nhiều, cũng được lưu trữ tại văn khố Hội Thừa sai Paris, thư viện Vatican và một số thư viện khác ở Roma. [ Archives des Missions Étrangères de Paris; Mgr Néez, Documents sur le Clergé tonkinois aux XVIIè et XVIIIè siècles, Paris, Téqui; Nouvelles Lettres Édifiantes des Missions de la Chine et des Indes Orientales, tomes VI-VIII, Paris, Le Clere; Nouvelles des Missions Orientales, reçues au Séminaire des Missions Étrangères, à Paris, en 1785 et 1786, Amsterdam, 1787; Nouvelles des Missions Orientales, reçues au Séminaire des Missions Étrangères, à Paris, en 1787-1788, Paris, Crapart, 1789; Nouvelles des Missions Orientales, reçues au Séminaire des Missions Étrangères, à Paris, en 1794-1807, Lyon, Rusand, 1808]

Xin trích một vài nội dung tài liệu có liên-quan đến chủ đề, số tài liệu có rất nhiều, nhưng do chủ yếu nói về tôn giáo và các sinh hoạt, nghi lễ tôn giáo, nên người dịch không dịch.

Các tài liệu chia làm 2 nhóm [ Đàng Ngoài, Đàng Trong], được đánh số để chia từng giai đoạn là:

  • Tonkin 1640-1699
  • Tonkin 1770-1749
  • Tonkin 1750-1799
  • Tonkin 1800-1846
  • Cochinchine 1667-1699
  • Cochinchine 1700-1749
  • Cochinchine 1750-1799
  • Cochinchine 1800-184

  • Ngoài ra, dòng Mến Thánh Giá còn lưu được rất nhiều tài liệu về cách xưng hô địa danh cổ, tiếng Việt cổ thời ấy.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
  • Phiến quân ở Nghệ An, 1750

Trong năm 1750 này, một trong những thủ lĩnh của quân nổi dậy đã từ tỉnh miền Đông vào Nghệ An, giáp với Đàng Trong, thuộc Giáo hạt Tây, đã gây ra nhiều rối loạn ở đó và làm tổn hại nhiều đến công việc truyền giáo của chúng tôi, vì ông ta đã đốt cháy nhiều các làng Cơ đốc giáo và bắt cóc một số phụ nữ và trẻ em gái Cơ đốc giáo, trong số đó người ta tìm thấy một số nữ tu là Dòng Mến Thánh Giá; nhưng những lo sợ nhiều hơn để trinh tiết hơn mạng sống của mình, tìm cách chạy trốn và thoát khỏi tay quân lính. Ba bốn căn nhà của những cô gái đáng thương này bị cháy rụi hoàn toàn; một phần lớn sách châu Âu của chúng tôi và gạo dành cho chủng sinh của chúng tôi, những thứ được ký gửi với chúng, đã bị ngọn lửa thiêu rụi.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư ông Savary gửi ông Lebon

Ngày 12 tháng 5 năm 1756

Tôi ở lại [trong khóa tu của mình] 4 tháng, trong thời gian đó tôi đã học ngôn ngữ [Tiếng Việt]. Tôi được đưa đến một trong những nơi ở của chúng tôi gọi là Trại mlồi, nơi tôi ở rất yên bình trong hơn 6 tháng, ở đó phục vụ các Kitô hữu và một cộng đồng nữ tu khoảng 20 người.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top