- Biển số
- OF-84940
- Ngày cấp bằng
- 11/2/11
- Số km
- 5,048
- Động cơ
- 459,461 Mã lực
- Nơi ở
- Đền chùa
- Website
- bacsinoitru.vn
Tất cả trẻ em ở các nước đang phát triển được chẩn đoán bệnh sởi cần được bổ sung 2 liều vitamin A, cách nhau 24 giờ. Điều trị này nhằm khôi phục nồng độ vitamin A thấp trong thời gian mắc sởi, ngay cả với trẻ được nuôi dưỡng tốt, để giúp dự phòng tổn thương mắt và mù lòa. Bổ sung vitamin A đã được chứng minh là làm giảm 50% số lượng các trường hợp tử vong do bệnh sởi.
Những điểm chính
- Bệnh sởi là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em mặc dù đã có vacxin an toàn và hiệu quả
- Năm 2012, có 122.000 trường hợp tử vong do sởi trên toàn cầu – khoảng 330 trường hợp tử vong mỗi ngày hoặc 14 trường hợp tử vong mỗi giờ
- Tiêm phòng sởi đã làm giảm 78% các trường hợp tử vong do sởi từ năm 2000 đến 2012 trên toàn thế giới
- Năm 2012, có khoảng 84% trẻ em trên toàn thế giới được tiêm một liều vacxin phòng sởi trong ngày sinh nhật đầu tiên của mình thông qua các dịch vụ sức khỏe định kỳ - tăng lên từ 72% trong năm 2000
- Từ năm 2000, có hơn 1 tỷ trẻ em ở các nước có nguy cơ cao được tiêm phòng sởi thông qua các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt – khoảng 145 triệu trẻ được tiêm phòng vào năm 2012
Sởi là một bệnh nghiêm trọng và dễ lây gây ra bởi một loại virus. Năm 1980, trước khi có chương trình tiêm chủng mở rộng, sởi đã gây tử vong khoảng 2,6 triệu người mỗi năm.
Sởi vẫn là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho trẻ em trên toàn cầu mặc dù đã có vacxin an toàn và hiệu quả. Có khoảng 122.000 người tử vong do sởi trong năm 2012 – phần lớn là trẻ dưới 5 tuổi.
Bệnh sởi gây ra bởi một loại virus trong họ paramyxovirus. Virus sởi thường phát triển trong tế bào lót ở phía sau của họng và phổi. Sởi là một bệnh ở người và vẫn chưa biết có xảy ra ở động vật hay không.
Hoạt động tiêm chủng được đẩy mạnh đã có một tác động lớn trong việc làm giảm tử vong do sởi. Từ năm 2000, có hơn 1 tỷ trẻ em ở các nước có nguy cơ cao được tiêm phòng vacxin chống lại bệnh sởi thông qua chiến dịch tiêm phòng mở rộng – có khoảng 145 triệu trẻ được tiêm trong năm 2012. Tỷ lệ tử vong do sởi trên toàn cầu đã giảm 78%, từ 562.000 trường hợp xuống còn 122.000 trường hợp.
Dấu hiệu và triệu chứng
Dấu hiệu đầu tiên của bệnh sởi thường là sốt cao, sốt bắt đầu từ 10 đến 12 ngày sau khi tiếp xúc với virus, và kéo dài từ 4 đến 7 ngày. Chảy nước mũi, ho, mắt đỏ và chảy nước mắt, và các đốm trắng nhỏ bên trong má có thể xuất hiện trong giai đoạn đầu. Sau một vài ngày thì ban sởi (ban đỏ/nâu dạng chấm) bùng phát, thường ở mặt và cổ. Trong khoảng 3 ngày, ban sởi lan rộng xuống thân mình, và cuối cùng xuống tới tay và chân. Ban sởi kéo dài 5 – 6 ngày, và sau đó mất dần. Trung bình, ban sởi xuất hiện sau khi tiếp xúc với virus được 14 ngày (trong phạm vi 7 đến 18 ngày).
Ban sởi (ban đỏ/nâu dạng chấm) ở trẻ em
Sởi nặng thường gặp ở trẻ em được nuôi dưỡng kém (trẻ suy dinh dưỡng), đặc biệt những trẻ thiếu hụt vitamin A hoặc hệ thống miễn dịch của chúng bị suy giảm do HIV/AIDS hoặc các bệnh lý khác.
Hầu hết các trường hợp tử vong liên quan tới sởi là do biến chứng của bệnh. Các biến chứng chủ yếu gặp ở trẻ dưới 5 tuổi hoặc người lớn trên 20 tuổi. Các biến chứng nghiêm trọng nhất bao gồm: mù mắt, viêm não (nhiễm trùng gây phù não), tiêu chẩy nặng gây mất nước, nhiễm trùng tai, hoặc nhiễm trùng hô hấp như viêm phổi. Có gần 10% các trường hợp sởi tử vong trong quần thể có tỷ lệ suy sinh dưỡng cao và không được chăm sóc y tế đầy đủ. Phụ nữ bị sởi trong khi mang thai cũng có nguy cơ biến chứng nặng và thai kỳ có thể kết thúc do sẩy thai hoặc sinh non. Những người khỏi bệnh sởi sẽ có miễn dịch với sởi suốt đời.
Ai có nguy cơ?
Trẻ em không được tiêm vacxin phòng bệnh có nguy cơ mắc sởi và các biến chứng cao nhất, bao gồm cả tử vong. Phụ nữ mang thai không được tiêm phòng cũng có nguy cơ. Bất cứ ai không có miễn dịch (người chưa được tiêm phòng hoặc đã được tiêm phòng nhưng không tạo được miễn dịch) đều có thể mắc sởi.
Sởi vẫn còn phổ biến ở nhiều nước đang phát triển – đặc biệt là ở một số vùng ở châu Phi và châu Á. Hơn 20 triệu người bị ảnh hưởng bởi bệnh sởi mỗi năm. Đại đa số (95%) các trường hợp tử vong do sởi xảy ra ở các nước có thu nhập bình quân đầu người thấp và cơ sở hạ tầng y tế yếu kém.
Dịch sởi có thể đặc biệt nguy hiểm ở các nước đang trải qua hoặc đang phục hồi từ thảm họa tự nhiên hoặc xung đột. Các thiệt hại cho cơ sở hạ tầng y tế và dịch vụ y tế đã làm gián đoạn tiêm chủng định kỳ, và sự quá tải trong các trại dân cư tập trung làm tăng đáng kể nguy cơ mắc sởi.
Lây truyền
Virus rất dễ lây qua ho và hắt hơi, tiếp xúc gần hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết nhiễm bệnh của mũi hoặc họng.
Virus vẫn hoạt động và dễ lây trong không khí hoặc trên các bề mặt bị nhiễm trong gần 2 giờ. Nó có thể lây truyền từ người mắc bệnh trong vòng 4 ngày trước khi bắt đầu phát ban cho tới 4 ngày sau khi phát ban.
Dịch sởi có thể có thể phát triển thành vụ dịch lớn làm nhiều người tử vong, đặc biệt là giới trẻ, trẻ em suy dinh dưỡng. Ở những nước mà dịch sởi đã gần như được xóa sổ thì các trường hợp nhiễm bệnh đến từ các nước khác có dịch sẽ là nguồn lây nhiễm quan trọng.
Điều trị
Không có phương pháp điều trị kháng virus đặc hiệu cho virus sởi. Các biện pháp điều trị khác chủ yếu nhằm hỗ trợ và làm cho người bệnh cảm thấy dễ chịu hơn:
- Paracetamol hoặc ibuprofen (phù hợp với lứa tuổi) có thể giúp hạ sốt và giảm đau.
- Uống nhiều nước để tránh mất nước, tốt nhất vẫn là dung dịch điện giải (oresol) với nồng độ phù hợp.
- Vệ sinh/làm sạch mắt bằng bông sạch (tăm bông).
- Đóng rèm cửa giúp làm giảm sự nhậy cảm với ánh sáng của mắt.
Bệnh sởi thường tự khỏi, nhưng nếu có triệu chứng khác thường xuất hiện như tiêu chảy, nôn, đau tai và đau họng, khó thở, hoặc rối loạn ý thức… thì cần nhanh chóng tìm kiếm tư vấn y tế. Trong một vài trường hợp bệnh sởi nặng, đặc biệt nếu có biến chứng, cần đưa trẻ vào viện để điều trị.
Biến chứng nặng do sởi có thể tránh được thông qua việc điều trị hỗ trợ nhằm đảm bảo dinh dưỡng tốt, uống đủ nước và điều trị mất nước bằng dung dịch bù nước và điện giải đường uống (oresol) được khuyến cáo bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Dung dịch này thay thế cho dịch và các yếu tố cần thiết đã bị mất qua tiêu chảy và nôn. Thuốc kháng sinh có thể được chỉ định điều trị các nhiễm trùng tai và mắt, và viêm phổi.
Tất cả trẻ em ở các nước đang phát triển được chẩn đoán bệnh sởi cần được bổ sung 2 liều vitamin A, cách nhau 24 giờ. Điều trị này nhằm khôi phục nồng độ vitamin A thấp trong thời gian mắc sởi, ngay cả với trẻ được nuôi dưỡng tốt, để giúp dự phòng tổn thương mắt và mù lòa. Bổ sung vitamin A đã được chứng minh là làm giảm 50% số lượng các trường hợp tử vong do bệnh sởi.
Trẻ em mắc sởi không nên đến trường cho tới sau khi ban sởi bắt đầu xuất hiện tối thiểu 5 ngày
Vitamin A
Việc sử dụng vitamin A cho trẻ mắc sởi ở những nước đang phát triển có liên quan tới tỷ lệ mắc bệnh và tử vong giảm. Cơ chế tác dụng vẫn chưa được biết; vitamin A có thể sửa chữa tình trạng giảm retinol máu do virus gây ra.
Nồng độ vitamin A trong huyết thanh thấp đã được ghi nhận ở trẻ em tại Mỹ, và nồng độ vitamin A trong huyết thanh thấp cũng đã được ghi nhận ở trẻ em bị bệnh nặng hơn. Việc sử dụng vitamin A trong điều trị sởi ở những nước đang phát triển chưa được đánh giá trong nghiên cứu lâm sàng
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo rằng vitamin A được sử dụng cho tất cả trẻ em mắc sởi, bất kể họ ở quốc gia nào. Vitamin A trong điều trị sởi được sử dụng một lần mỗi ngày trong thời gian hai ngày với những liều sau:
- Trẻ < 6 tháng tuổi: 50.000 UI
- Trẻ từ 6 – 11 tháng tuổi: 100.000 UI
- Trẻ ≥ 12 tháng tuổi: 200.000 UI
Đối với trẻ em có dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng do thiếu hụt vitamin A thì có thể sử dụng liều thứ ba (dựa trên các nguyên tắc tuổi ở trên) sau 2 – 4 tuần
Dự phòng
Dự phòng chống lại bệnh sởi cũng như quai bị và rubella bằng cách tiêm vacxin MMR khi trẻ được 13 tháng tuổi và sau đó tiêm tăng cường ở độ tuổi 3 – 5 tuổi. Nếu bạn là người lớn mà chưa được tiêm phòng hoặc chưa mắc sởi thì bạn cũng cần tiêm vacxin MMR để phòng bệnh.
Phụ nữ dự định có thai mà chưa được tiêm phòng sởi thì nói chuyện/đi khám với bác sĩ để được tư vấn và tiêm phòng vì khi đang mang thai sẽ không được tiêm phòng sởi. Mắc sởi khi đang mang thai có thể sẽ gây hại cho bào thai.
Tiêm vacxin phòng sởi định kỳ cho trẻ, kết hợp với chiến dịch tiêm chủng hàng loạt ở các nước có số trường hợp mắc và tỷ lệ tử vong cao, là những chiến lược y tế công cộng quan trọng để làm giảm tỷ lệ tử vong do sởi trên toàn cầu. Vacxin dự phòng sởi đã được sử dụng trong 50 năm. Nó an toàn, hiệu quả và không đắt. Chi phí ít hơn 1 đô la để tiêm chủng cho trẻ chống lại bệnh sởi.
Vacxin dự phòng sởi thường được kết hợp với vacxin dự phòng quai bị và/hoặc rubella (vacxin MMR) ở những nước mà những bệnh này hoành hành. Hiệu quả của dạng đơn và dạng kết hợp tương đương nhau.
Năm 2012, có khoảng 84% trẻ em trên toàn thế giới được tiêm một liều vacxin phòng sởi trong ngày sinh nhật đầu tiên của mình thông qua các dịch vụ sức khỏe định kỳ - tăng lên từ 72% trong năm 2000. Khuyến cáo sử dụng 2 liều vacxin dự phòng sởi để đảm bảo khả năng miễn dịch và dự phòng dịch sởi vì có khoảng 15% trẻ em được tiêm chủng thất bại trong việc tạo ra miễn dịch với liều đầu tiên.
Nếu bạn mắc sởi
Tránh tiếp xúc với người khác, đặc biệt là phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh vì họ dễ bị lây nhiễm hơn.
Tránh xa trường học, nhà trẻ, nơi làm việc cho tới sau khi ban sởi bắt đầu xuất hiện ít nhất 5 ngày.
Nguồn tham khảo
1. WHO | Measles (2/3014)
2. Health Protection Agency | London School of Hygiene and Tropical Medicine | NHS Choices
3. WebMD news - Measles vaccine plea as cases rise sharply
Những điểm chính
- Bệnh sởi là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em mặc dù đã có vacxin an toàn và hiệu quả
- Năm 2012, có 122.000 trường hợp tử vong do sởi trên toàn cầu – khoảng 330 trường hợp tử vong mỗi ngày hoặc 14 trường hợp tử vong mỗi giờ
- Tiêm phòng sởi đã làm giảm 78% các trường hợp tử vong do sởi từ năm 2000 đến 2012 trên toàn thế giới
- Năm 2012, có khoảng 84% trẻ em trên toàn thế giới được tiêm một liều vacxin phòng sởi trong ngày sinh nhật đầu tiên của mình thông qua các dịch vụ sức khỏe định kỳ - tăng lên từ 72% trong năm 2000
- Từ năm 2000, có hơn 1 tỷ trẻ em ở các nước có nguy cơ cao được tiêm phòng sởi thông qua các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt – khoảng 145 triệu trẻ được tiêm phòng vào năm 2012
Sởi là một bệnh nghiêm trọng và dễ lây gây ra bởi một loại virus. Năm 1980, trước khi có chương trình tiêm chủng mở rộng, sởi đã gây tử vong khoảng 2,6 triệu người mỗi năm.
Sởi vẫn là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho trẻ em trên toàn cầu mặc dù đã có vacxin an toàn và hiệu quả. Có khoảng 122.000 người tử vong do sởi trong năm 2012 – phần lớn là trẻ dưới 5 tuổi.
Bệnh sởi gây ra bởi một loại virus trong họ paramyxovirus. Virus sởi thường phát triển trong tế bào lót ở phía sau của họng và phổi. Sởi là một bệnh ở người và vẫn chưa biết có xảy ra ở động vật hay không.
Hoạt động tiêm chủng được đẩy mạnh đã có một tác động lớn trong việc làm giảm tử vong do sởi. Từ năm 2000, có hơn 1 tỷ trẻ em ở các nước có nguy cơ cao được tiêm phòng vacxin chống lại bệnh sởi thông qua chiến dịch tiêm phòng mở rộng – có khoảng 145 triệu trẻ được tiêm trong năm 2012. Tỷ lệ tử vong do sởi trên toàn cầu đã giảm 78%, từ 562.000 trường hợp xuống còn 122.000 trường hợp.
Dấu hiệu và triệu chứng
Dấu hiệu đầu tiên của bệnh sởi thường là sốt cao, sốt bắt đầu từ 10 đến 12 ngày sau khi tiếp xúc với virus, và kéo dài từ 4 đến 7 ngày. Chảy nước mũi, ho, mắt đỏ và chảy nước mắt, và các đốm trắng nhỏ bên trong má có thể xuất hiện trong giai đoạn đầu. Sau một vài ngày thì ban sởi (ban đỏ/nâu dạng chấm) bùng phát, thường ở mặt và cổ. Trong khoảng 3 ngày, ban sởi lan rộng xuống thân mình, và cuối cùng xuống tới tay và chân. Ban sởi kéo dài 5 – 6 ngày, và sau đó mất dần. Trung bình, ban sởi xuất hiện sau khi tiếp xúc với virus được 14 ngày (trong phạm vi 7 đến 18 ngày).
Sởi nặng thường gặp ở trẻ em được nuôi dưỡng kém (trẻ suy dinh dưỡng), đặc biệt những trẻ thiếu hụt vitamin A hoặc hệ thống miễn dịch của chúng bị suy giảm do HIV/AIDS hoặc các bệnh lý khác.
Hầu hết các trường hợp tử vong liên quan tới sởi là do biến chứng của bệnh. Các biến chứng chủ yếu gặp ở trẻ dưới 5 tuổi hoặc người lớn trên 20 tuổi. Các biến chứng nghiêm trọng nhất bao gồm: mù mắt, viêm não (nhiễm trùng gây phù não), tiêu chẩy nặng gây mất nước, nhiễm trùng tai, hoặc nhiễm trùng hô hấp như viêm phổi. Có gần 10% các trường hợp sởi tử vong trong quần thể có tỷ lệ suy sinh dưỡng cao và không được chăm sóc y tế đầy đủ. Phụ nữ bị sởi trong khi mang thai cũng có nguy cơ biến chứng nặng và thai kỳ có thể kết thúc do sẩy thai hoặc sinh non. Những người khỏi bệnh sởi sẽ có miễn dịch với sởi suốt đời.
Ai có nguy cơ?
Trẻ em không được tiêm vacxin phòng bệnh có nguy cơ mắc sởi và các biến chứng cao nhất, bao gồm cả tử vong. Phụ nữ mang thai không được tiêm phòng cũng có nguy cơ. Bất cứ ai không có miễn dịch (người chưa được tiêm phòng hoặc đã được tiêm phòng nhưng không tạo được miễn dịch) đều có thể mắc sởi.
Sởi vẫn còn phổ biến ở nhiều nước đang phát triển – đặc biệt là ở một số vùng ở châu Phi và châu Á. Hơn 20 triệu người bị ảnh hưởng bởi bệnh sởi mỗi năm. Đại đa số (95%) các trường hợp tử vong do sởi xảy ra ở các nước có thu nhập bình quân đầu người thấp và cơ sở hạ tầng y tế yếu kém.
Dịch sởi có thể đặc biệt nguy hiểm ở các nước đang trải qua hoặc đang phục hồi từ thảm họa tự nhiên hoặc xung đột. Các thiệt hại cho cơ sở hạ tầng y tế và dịch vụ y tế đã làm gián đoạn tiêm chủng định kỳ, và sự quá tải trong các trại dân cư tập trung làm tăng đáng kể nguy cơ mắc sởi.
Lây truyền
Virus rất dễ lây qua ho và hắt hơi, tiếp xúc gần hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết nhiễm bệnh của mũi hoặc họng.
Virus vẫn hoạt động và dễ lây trong không khí hoặc trên các bề mặt bị nhiễm trong gần 2 giờ. Nó có thể lây truyền từ người mắc bệnh trong vòng 4 ngày trước khi bắt đầu phát ban cho tới 4 ngày sau khi phát ban.
Dịch sởi có thể có thể phát triển thành vụ dịch lớn làm nhiều người tử vong, đặc biệt là giới trẻ, trẻ em suy dinh dưỡng. Ở những nước mà dịch sởi đã gần như được xóa sổ thì các trường hợp nhiễm bệnh đến từ các nước khác có dịch sẽ là nguồn lây nhiễm quan trọng.
Điều trị
Không có phương pháp điều trị kháng virus đặc hiệu cho virus sởi. Các biện pháp điều trị khác chủ yếu nhằm hỗ trợ và làm cho người bệnh cảm thấy dễ chịu hơn:
- Paracetamol hoặc ibuprofen (phù hợp với lứa tuổi) có thể giúp hạ sốt và giảm đau.
- Uống nhiều nước để tránh mất nước, tốt nhất vẫn là dung dịch điện giải (oresol) với nồng độ phù hợp.
- Vệ sinh/làm sạch mắt bằng bông sạch (tăm bông).
- Đóng rèm cửa giúp làm giảm sự nhậy cảm với ánh sáng của mắt.
Bệnh sởi thường tự khỏi, nhưng nếu có triệu chứng khác thường xuất hiện như tiêu chảy, nôn, đau tai và đau họng, khó thở, hoặc rối loạn ý thức… thì cần nhanh chóng tìm kiếm tư vấn y tế. Trong một vài trường hợp bệnh sởi nặng, đặc biệt nếu có biến chứng, cần đưa trẻ vào viện để điều trị.
Biến chứng nặng do sởi có thể tránh được thông qua việc điều trị hỗ trợ nhằm đảm bảo dinh dưỡng tốt, uống đủ nước và điều trị mất nước bằng dung dịch bù nước và điện giải đường uống (oresol) được khuyến cáo bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Dung dịch này thay thế cho dịch và các yếu tố cần thiết đã bị mất qua tiêu chảy và nôn. Thuốc kháng sinh có thể được chỉ định điều trị các nhiễm trùng tai và mắt, và viêm phổi.
Tất cả trẻ em ở các nước đang phát triển được chẩn đoán bệnh sởi cần được bổ sung 2 liều vitamin A, cách nhau 24 giờ. Điều trị này nhằm khôi phục nồng độ vitamin A thấp trong thời gian mắc sởi, ngay cả với trẻ được nuôi dưỡng tốt, để giúp dự phòng tổn thương mắt và mù lòa. Bổ sung vitamin A đã được chứng minh là làm giảm 50% số lượng các trường hợp tử vong do bệnh sởi.
Trẻ em mắc sởi không nên đến trường cho tới sau khi ban sởi bắt đầu xuất hiện tối thiểu 5 ngày
Vitamin A
Việc sử dụng vitamin A cho trẻ mắc sởi ở những nước đang phát triển có liên quan tới tỷ lệ mắc bệnh và tử vong giảm. Cơ chế tác dụng vẫn chưa được biết; vitamin A có thể sửa chữa tình trạng giảm retinol máu do virus gây ra.
Nồng độ vitamin A trong huyết thanh thấp đã được ghi nhận ở trẻ em tại Mỹ, và nồng độ vitamin A trong huyết thanh thấp cũng đã được ghi nhận ở trẻ em bị bệnh nặng hơn. Việc sử dụng vitamin A trong điều trị sởi ở những nước đang phát triển chưa được đánh giá trong nghiên cứu lâm sàng
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo rằng vitamin A được sử dụng cho tất cả trẻ em mắc sởi, bất kể họ ở quốc gia nào. Vitamin A trong điều trị sởi được sử dụng một lần mỗi ngày trong thời gian hai ngày với những liều sau:
- Trẻ < 6 tháng tuổi: 50.000 UI
- Trẻ từ 6 – 11 tháng tuổi: 100.000 UI
- Trẻ ≥ 12 tháng tuổi: 200.000 UI
Đối với trẻ em có dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng do thiếu hụt vitamin A thì có thể sử dụng liều thứ ba (dựa trên các nguyên tắc tuổi ở trên) sau 2 – 4 tuần
Theo: Uptodate (14/03/2014)
Dự phòng
Dự phòng chống lại bệnh sởi cũng như quai bị và rubella bằng cách tiêm vacxin MMR khi trẻ được 13 tháng tuổi và sau đó tiêm tăng cường ở độ tuổi 3 – 5 tuổi. Nếu bạn là người lớn mà chưa được tiêm phòng hoặc chưa mắc sởi thì bạn cũng cần tiêm vacxin MMR để phòng bệnh.
Phụ nữ dự định có thai mà chưa được tiêm phòng sởi thì nói chuyện/đi khám với bác sĩ để được tư vấn và tiêm phòng vì khi đang mang thai sẽ không được tiêm phòng sởi. Mắc sởi khi đang mang thai có thể sẽ gây hại cho bào thai.
Tiêm vacxin phòng sởi định kỳ cho trẻ, kết hợp với chiến dịch tiêm chủng hàng loạt ở các nước có số trường hợp mắc và tỷ lệ tử vong cao, là những chiến lược y tế công cộng quan trọng để làm giảm tỷ lệ tử vong do sởi trên toàn cầu. Vacxin dự phòng sởi đã được sử dụng trong 50 năm. Nó an toàn, hiệu quả và không đắt. Chi phí ít hơn 1 đô la để tiêm chủng cho trẻ chống lại bệnh sởi.
Vacxin dự phòng sởi thường được kết hợp với vacxin dự phòng quai bị và/hoặc rubella (vacxin MMR) ở những nước mà những bệnh này hoành hành. Hiệu quả của dạng đơn và dạng kết hợp tương đương nhau.
Năm 2012, có khoảng 84% trẻ em trên toàn thế giới được tiêm một liều vacxin phòng sởi trong ngày sinh nhật đầu tiên của mình thông qua các dịch vụ sức khỏe định kỳ - tăng lên từ 72% trong năm 2000. Khuyến cáo sử dụng 2 liều vacxin dự phòng sởi để đảm bảo khả năng miễn dịch và dự phòng dịch sởi vì có khoảng 15% trẻ em được tiêm chủng thất bại trong việc tạo ra miễn dịch với liều đầu tiên.
Nếu bạn mắc sởi
Tránh tiếp xúc với người khác, đặc biệt là phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh vì họ dễ bị lây nhiễm hơn.
Tránh xa trường học, nhà trẻ, nơi làm việc cho tới sau khi ban sởi bắt đầu xuất hiện ít nhất 5 ngày.
Nguồn tham khảo
1. WHO | Measles (2/3014)
2. Health Protection Agency | London School of Hygiene and Tropical Medicine | NHS Choices
3. WebMD news - Measles vaccine plea as cases rise sharply
ThS. BS. Lương Quốc Chính
Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bạch Mai
Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bạch Mai