- Biển số
- OF-43727
- Ngày cấp bằng
- 19/8/09
- Số km
- 86
- Động cơ
- 465,140 Mã lực
- Nơi ở
- Hà Nội
- Website
- oto123.com.vn
theo gợi ý của cụ admin, em gửi 1 bài viết để chia sẻ vấn đề mà nhiều cụ băn khoăn gần đây.
I. HỆ THỐNG BÔI TRƠN TRONG ĐỘNG CƠ .
1. cấu tạo chung
Trong các động cơ hiện nay thường áp dụng bôi trơn phối hợp giữa vung té và áp lực. Sơ đồ cấu tạo chung như sau :
1. Bầu lọc tinh; 2. Đồng hồ đo nhiệt độ dầu; 3. Két làm mát dầu; 4. Van điều khiển; 5. Khoá; 6. Phao lọc; 7. Bơm dầu; 8.Van điều áp; 9. Van an toàn; 10. Bầu lọc thô; 11. Động hồ áp suất; 12. Đường dầu chính; 13. Cổ trục chính; 14.Cổ trục cam; 15. Trục cò mổ; 16. Thước thăm dầu; 17. Ống đổ dầu.
2. Nguyên lý làm việc
Dầu nhờn chứa trong cácte được bơm dầu hút qua phao lọc từ đáy máy đưa tới bầu lọc lọc sạch, sau đó vào đường dầu chính ở thân máy đến bôi trơn ổ trục chính của trục khuỷu. Một phần dầu từ các ổ đỡ chính, chảy qua các lỗ dầu được khoan bên trong trục khuỷu, đến các ổ đỡ thanh truyền. Phần dầu này tiếp tục chảy qua khe dầu của ổ trục phun vào các bộ phận truyền động, bôi trơn piston, xi lanh, chốt piston và bạc đầu nhỏ thanh truyền...( nếu trong thân thanh truyền có đường dầu thì dầu theo đường dẫn này tới bôi trơn cho chốt piston và bạc đầu nhỏ thanh truyền sau đó phun ra lỗ phía trên đầu nhỏ để làm mát đỉnh piston). Đồng thời dầu theo rãnh dầu đến bôi trơn các ổ đỡ trục cam và theo rãnh dầu lên nắp máy đi bôi trơn các chi tiết truyền động xupáp. Sau khi tuần hoàn qua tất cả các bộ phận cần bôi trơn, dầu rơi trở về cácte.
Trong bầu lọc dầu có bố trí van an toàn, khi bầu lọc bị tắc do bẩn, áp suất dầu tăng sẽ mở van này cho dầu đi tắt lên đường dầu chính không qua bầu lọc.
Áp suất và nhiệt độ dầu được đồng hồ áp suất và nhiệt độ dầu chỉ báo. Khi nhiệt độ dầu quá 80 C làm độ nhớt giảm, khi đó van điều khiển (4) mở để dầu nhờn qua két làm mát.
Van điều chỉnh áp suất đảm bảo áp suất dầu trong hệ thống ổn định không phụ thuộc tốc độ động cơ
II. DẦU NHỚT THÔNG THƯỜNG BÔI TRƠN TRONG ĐỘNG CƠ .
Việc bôi trơn các chi tiết kim loại trong động cơ được sử dụng các loại dầu nhớt thông thường với các đặc tính cơ bản và quan trọng là độ nhớt và tính bôi trơn. Giữa các lớp trượt của chi tiết kim loại chuyển động trong động cơ thường có một lớp đệm dầu hoặc một lớp màng dầu tùy theo độ kín khít của các chi tiết kim loại mà chúng có độ dày khoảng 1µm trở lên .
Với các loại dầu nhớt thông thường, lớp màng dầu bám vào bề mặt kim loại nhờ lực liên kết phân tử giữa các phân tử dầu bôi trơn với nhau và giữa các phân tử dầu bôi trơn với bề mặt kim loại. Lực liên kết này yếu, không bền vững ( khoảng 0,1-0,5 Kca/ mol ), vì vậy lớp đệm dầu chỉ chịu được giới hạn tải trọng và va đập thấp , khi giới hạn va đập và tải trọng tăng cao làm cho hệ số ma sát giữa các bề mặt chi tiết kim loại tăng cao nên tiếp tục sinh nhiệt và làm tăng độ mài mòn các chi tiết. Khi nhiệt độ liên tục tăng cao do ma sát, chất lượng dầu giảm nhanh chóng, các mạt kim loại trong quá trình bị mài mòn lẫn trong dầu gây ảnh hưởng xấu tới quá trình bôi trơn vì vậy đối với ô tô, thường phải thay dầu sau mỗi 5000 km lăn bánh .
III . DẦU MIRACLE ĐÃ KHẮC PHỤC HOÀN TOÀN ĐƯỢC NHƯỢC ĐIỂM TRÊN .
Vấn đề mấu chốt của công nghệ là cần phải tạo được màng dầu có lực liên kết với bề mặt các chi tiết chuyển động trong động cơ bằng lực liên kết lớn hơn nhiều lần so với lực liên kết phân tử của màng dầu thông thường .
Các chuyên gia Hãng dầu MIRACLE đã sáng tạo ra công nghệ đột phá , tạo ra loại dầu đặc biệt có khả năng tạo ra được màng dầu có các phân tử dầu liên kết với các phân tử kim loại bằng liên kết ion . Các phân tử dầu MIRACLE đã được ion hóa thành các ion âm, sau khi được bơm dầu đẩy đến các chi tiết kim loại , các ion âm dầu MIRACLE tương tác với các ion dương kim loại ở bề mặt chi tiết kim loại trong động cơ, chúng tạo thành màng liên kết ion với lực liên kết ion bền vững gấp hàng trăm lần so với các màng dầu thông thường. Mỗi ion tạo ra điện trường xung quanh nó nên nó có thể liên kết theo mọi hường, mỗi ion lại có thể liên kết được nhiều ion xung quanh nó và tạo thành một liên kết rất bền vững .
Lực ma sát giữa các bề mặt chi tiết kim loại có màng dầu liên kết ion của dầu MIRACLE nhỏ hàng trăm lần so với màng dầu liên kết phân tử của dầu bôi trơn thông thường. Nhiệt độ tiếp xúc và hệ số ma sát giữa bề mặt hai chi tiết kim loại trong động cơ giảm xuống. Do đó tăng được giới hạn tải trọng và lực va đập gấp nhiều lần, giảm tiêu hao nhiên liệu trong động cơ, tăng công suất động cơ.
Vì vậy tùy theo mật độ ion dầu MIRACLE và chất lượng dầu gốc, động cơ có thể chạy từ 20.000 km đến 150.000 km mới cần phải thay dầu. Điều này đồng nghĩa với việc tiết kiệm rất nhiều chi phí như công thay dầu, nhiên liệu, dầu nhớt đồng thời góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
I. HỆ THỐNG BÔI TRƠN TRONG ĐỘNG CƠ .
1. cấu tạo chung
Trong các động cơ hiện nay thường áp dụng bôi trơn phối hợp giữa vung té và áp lực. Sơ đồ cấu tạo chung như sau :
Hình 1: Sơ đồ hệ thống bôi trơn động cơ xi lanh thẳng hàng, có trục cam lắp ở thân máy
2. Nguyên lý làm việc
Dầu nhờn chứa trong cácte được bơm dầu hút qua phao lọc từ đáy máy đưa tới bầu lọc lọc sạch, sau đó vào đường dầu chính ở thân máy đến bôi trơn ổ trục chính của trục khuỷu. Một phần dầu từ các ổ đỡ chính, chảy qua các lỗ dầu được khoan bên trong trục khuỷu, đến các ổ đỡ thanh truyền. Phần dầu này tiếp tục chảy qua khe dầu của ổ trục phun vào các bộ phận truyền động, bôi trơn piston, xi lanh, chốt piston và bạc đầu nhỏ thanh truyền...( nếu trong thân thanh truyền có đường dầu thì dầu theo đường dẫn này tới bôi trơn cho chốt piston và bạc đầu nhỏ thanh truyền sau đó phun ra lỗ phía trên đầu nhỏ để làm mát đỉnh piston). Đồng thời dầu theo rãnh dầu đến bôi trơn các ổ đỡ trục cam và theo rãnh dầu lên nắp máy đi bôi trơn các chi tiết truyền động xupáp. Sau khi tuần hoàn qua tất cả các bộ phận cần bôi trơn, dầu rơi trở về cácte.
Trong bầu lọc dầu có bố trí van an toàn, khi bầu lọc bị tắc do bẩn, áp suất dầu tăng sẽ mở van này cho dầu đi tắt lên đường dầu chính không qua bầu lọc.
Áp suất và nhiệt độ dầu được đồng hồ áp suất và nhiệt độ dầu chỉ báo. Khi nhiệt độ dầu quá 80 C làm độ nhớt giảm, khi đó van điều khiển (4) mở để dầu nhờn qua két làm mát.
Van điều chỉnh áp suất đảm bảo áp suất dầu trong hệ thống ổn định không phụ thuộc tốc độ động cơ
II. DẦU NHỚT THÔNG THƯỜNG BÔI TRƠN TRONG ĐỘNG CƠ .
Việc bôi trơn các chi tiết kim loại trong động cơ được sử dụng các loại dầu nhớt thông thường với các đặc tính cơ bản và quan trọng là độ nhớt và tính bôi trơn. Giữa các lớp trượt của chi tiết kim loại chuyển động trong động cơ thường có một lớp đệm dầu hoặc một lớp màng dầu tùy theo độ kín khít của các chi tiết kim loại mà chúng có độ dày khoảng 1µm trở lên .
Với các loại dầu nhớt thông thường, lớp màng dầu bám vào bề mặt kim loại nhờ lực liên kết phân tử giữa các phân tử dầu bôi trơn với nhau và giữa các phân tử dầu bôi trơn với bề mặt kim loại. Lực liên kết này yếu, không bền vững ( khoảng 0,1-0,5 Kca/ mol ), vì vậy lớp đệm dầu chỉ chịu được giới hạn tải trọng và va đập thấp , khi giới hạn va đập và tải trọng tăng cao làm cho hệ số ma sát giữa các bề mặt chi tiết kim loại tăng cao nên tiếp tục sinh nhiệt và làm tăng độ mài mòn các chi tiết. Khi nhiệt độ liên tục tăng cao do ma sát, chất lượng dầu giảm nhanh chóng, các mạt kim loại trong quá trình bị mài mòn lẫn trong dầu gây ảnh hưởng xấu tới quá trình bôi trơn vì vậy đối với ô tô, thường phải thay dầu sau mỗi 5000 km lăn bánh .
III . DẦU MIRACLE ĐÃ KHẮC PHỤC HOÀN TOÀN ĐƯỢC NHƯỢC ĐIỂM TRÊN .
Vấn đề mấu chốt của công nghệ là cần phải tạo được màng dầu có lực liên kết với bề mặt các chi tiết chuyển động trong động cơ bằng lực liên kết lớn hơn nhiều lần so với lực liên kết phân tử của màng dầu thông thường .
Các chuyên gia Hãng dầu MIRACLE đã sáng tạo ra công nghệ đột phá , tạo ra loại dầu đặc biệt có khả năng tạo ra được màng dầu có các phân tử dầu liên kết với các phân tử kim loại bằng liên kết ion . Các phân tử dầu MIRACLE đã được ion hóa thành các ion âm, sau khi được bơm dầu đẩy đến các chi tiết kim loại , các ion âm dầu MIRACLE tương tác với các ion dương kim loại ở bề mặt chi tiết kim loại trong động cơ, chúng tạo thành màng liên kết ion với lực liên kết ion bền vững gấp hàng trăm lần so với các màng dầu thông thường. Mỗi ion tạo ra điện trường xung quanh nó nên nó có thể liên kết theo mọi hường, mỗi ion lại có thể liên kết được nhiều ion xung quanh nó và tạo thành một liên kết rất bền vững .
Lực ma sát giữa các bề mặt chi tiết kim loại có màng dầu liên kết ion của dầu MIRACLE nhỏ hàng trăm lần so với màng dầu liên kết phân tử của dầu bôi trơn thông thường. Nhiệt độ tiếp xúc và hệ số ma sát giữa bề mặt hai chi tiết kim loại trong động cơ giảm xuống. Do đó tăng được giới hạn tải trọng và lực va đập gấp nhiều lần, giảm tiêu hao nhiên liệu trong động cơ, tăng công suất động cơ.
Vì vậy tùy theo mật độ ion dầu MIRACLE và chất lượng dầu gốc, động cơ có thể chạy từ 20.000 km đến 150.000 km mới cần phải thay dầu. Điều này đồng nghĩa với việc tiết kiệm rất nhiều chi phí như công thay dầu, nhiên liệu, dầu nhớt đồng thời góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Chỉnh sửa cuối: