[video=youtube;q9l8o3tm4xI]http://www.youtube.com/watch?v=q9l8o3tm4xI[/video]
Harrier GR.1/GR.3 và AV-8A Harrier là thế hệ đầu tiên của loạt máy bay Harrier, đây là máy bay cường kích đầu tiên được sử dụng để hỗ trợ mặt đất và trinh sát với khả năng cất hạ cánh thẳng đứng/trên đường băng ngắn (V/STOL). Chúng được phát triển trực tiếp từ mẫu thử nghiệm Hawker P.1127 và mẫu máy bay đánh giá Kestrel.
Harrier được phát triển lại bởi McDonnell Douglas và British Aerospace, mà thành quả là AV-8B Harrier II và Harrier GR5/GR7/GR9, mỗi loại tương ứng với từng hãng.[2] Cả hai loại máy bay này đều được chế tạo bởi các công ty mà bây giờ là những công ty con của Boeing và BAE Systems.
BAE Sea Harrier là một máy bay chiến đấu phản lực VTOL/STOVL được chế tạo cho hải quân, với vai trò của máy bay tiêm kích, trinh sát và cường kích, một sự phát triển từ loại Hawker Siddeley Harrier. Phiên bản đầu tiên phục vụ trong Không quân Hải quân Hoàng gia Anh vào tháng 4 năm 1980 với tên gọi là Sea Harrier FRS.1, và tên gọi không chính thức khác là Shar. Phiên bản nâng cấp Sea Harrier FA2 bắt đầu phục vụ trong biên chế vào năm 1993. Nó được rút khỏi biên chế các đơn vị của Hải quân Hoàng gia Anh vào tháng 3 năm 2006. Sea Harrier FRS Mk.51 đang hoạt động tích cực trong biên chế của Hải quân Ấn Độ, loại máy bay này được sử dụng trên tàu sân bay INS Viraat.
Boeing/BAE Systems AV-8B Harrier II là thế hệ thứ hai của dòng máy bay Harrier, nó là một máy bay phản lực V/STOL đa chức năng được chế tạo vào cuối thế kỷ 20. Được phát triển từ Hawker Siddeley Harrier, nó được sử dụng chính cho nhiệm vụ tấn công ban ngày hoặc đa vai trò, AV-8B hoạt động chủ yếu trên các tàu sân bay nhỏ. Những phiên bản khác của AV-8B còn được sử dụng ở vài nước thuộc NATO, bao gồm Tây Ban Nha, Italy, và Hoa Kỳ.
Harrier GR.1/GR.3 và AV-8A Harrier là thế hệ đầu tiên của loạt máy bay Harrier, đây là máy bay cường kích đầu tiên được sử dụng để hỗ trợ mặt đất và trinh sát với khả năng cất hạ cánh thẳng đứng/trên đường băng ngắn (V/STOL). Chúng được phát triển trực tiếp từ mẫu thử nghiệm Hawker P.1127 và mẫu máy bay đánh giá Kestrel.
Harrier được phát triển lại bởi McDonnell Douglas và British Aerospace, mà thành quả là AV-8B Harrier II và Harrier GR5/GR7/GR9, mỗi loại tương ứng với từng hãng.[2] Cả hai loại máy bay này đều được chế tạo bởi các công ty mà bây giờ là những công ty con của Boeing và BAE Systems.
BAE Sea Harrier là một máy bay chiến đấu phản lực VTOL/STOVL được chế tạo cho hải quân, với vai trò của máy bay tiêm kích, trinh sát và cường kích, một sự phát triển từ loại Hawker Siddeley Harrier. Phiên bản đầu tiên phục vụ trong Không quân Hải quân Hoàng gia Anh vào tháng 4 năm 1980 với tên gọi là Sea Harrier FRS.1, và tên gọi không chính thức khác là Shar. Phiên bản nâng cấp Sea Harrier FA2 bắt đầu phục vụ trong biên chế vào năm 1993. Nó được rút khỏi biên chế các đơn vị của Hải quân Hoàng gia Anh vào tháng 3 năm 2006. Sea Harrier FRS Mk.51 đang hoạt động tích cực trong biên chế của Hải quân Ấn Độ, loại máy bay này được sử dụng trên tàu sân bay INS Viraat.
Boeing/BAE Systems AV-8B Harrier II là thế hệ thứ hai của dòng máy bay Harrier, nó là một máy bay phản lực V/STOL đa chức năng được chế tạo vào cuối thế kỷ 20. Được phát triển từ Hawker Siddeley Harrier, nó được sử dụng chính cho nhiệm vụ tấn công ban ngày hoặc đa vai trò, AV-8B hoạt động chủ yếu trên các tàu sân bay nhỏ. Những phiên bản khác của AV-8B còn được sử dụng ở vài nước thuộc NATO, bao gồm Tây Ban Nha, Italy, và Hoa Kỳ.