- Biển số
- OF-158
- Ngày cấp bằng
- 8/6/06
- Số km
- 1,649
- Động cơ
- 597,359 Mã lực
Nhà sản xuất: Toyota.
Quá trình sản xuất: 1980 present.
Dựa trên nền tảng: Toyota Corona
Nhóm sản phẩm: Hạng trung.
Đồng hạng với: Chevrolet Impala;Ford Fusion;Honda Accord;Hyundai;Sonata;Mazda Mazda6;Mitsubishi Galant;Nissan Altima; Volkswagen Passat.
Toyota Camry là một mác xe hạng trung, được sản xuất bởi nhà máy Toyota Georgetown (Kentucky Mỹ). Camry được biết đến là một mác xe nổi tiếng, nó bán rất chạy ở Mỹ trong suốt nhiều năm. Mỹ là thị trường lớn nhất của Camry, cũng là nơi gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ như Honda Accord, Mazda 6, Nissan Altima. Ngoài ra Camry còn bán rất chạy ở Australia và vài thị khác ở Châu Á, cá biệt có Campuchia phần lớn ô tô ở đây là Camry. Nó đã không bán chạy ở Châu Âu và Nhật Bản vì bị đánh giá là thiết kế không phù hợp với hai thị trường này. Ở Nhật Bản và Châu Á, đối thủ chính của Camry là Nissan Teana và Honda Accord.
Một nhãn hiệu sang trọng nâng cấp từ Camry được bán dưới cái tên Lexus ES ở thị trường Mỹ, và được biết đến như một hãng ô tô đến từ Nhật Bản.
Cái tên Camry lần đầu tiên được biết đến vào năm 1980 với Toyota Celica Camry. Dòng sản phẩm Toyota Camry độc lập đầu tiên ra mắt vào năm 1982. Nó là kết cấu của một xe sedan, nhưng vào một thời gian khác, nó đã được sử dụng trong các dòng xe Hatchback 5 cửa; 2 cửa coupé và xe Wagon. Một nhánh của Camry là Toyota Camry Solara gồm các phiên bản Coupé và Convertible.
Camry được đưa vào thiết kế lại và nâng cấp ở các đời xe năm 1987, 1992 (1990 ở Nhật Bản), 1997,2002 và mới đây năm 2006.
Khác với phiên bản gốc Celica Camry, Toyota Camry luôn là một chiếc xe được sắp đặt một cách hợp lý. Động cơ được lắp ngang để thuận lợi cho thiết kế dẫn động bánh trước. Có vài mẫu được đưa ra bán với thiết kế dẫn động bốn bánh.
Thế hệ thứ hai và thứ ba Camry được bán với cái tên Hollden Apollo ở Australia, mặc dù hai sản phẩm là tương đương, cùng được sản xuất từ một nhà máy nhưng Hollden đã không thành công. Từ năm 2000 Daihatsu đã bán Camry với một cái tên khác là Altis
Cái tên bắt nguồn từ phiên âm tiếng Anh một từ tiếng Nhật là kanmuri, có nghĩa là crown (Vương miện).
Camry là một trong những chiếc xe được ưa chuộng nhất thị trường Bắc Mỹ, công việc marketing và quản lý bán hàng được tiến hành rất thận trọng.
Camry có vị trí đứng ngay dưới Toyota Avalon và Lexus ES 330 ở hai thị trường lớn nhất là Australia và Bắc Mỹ.
Năm 2000 Camry là sản phẩm của nhà máy Toyota Nhật Bản, Australia và Georgetown, Kentucky, USA. Lắp ráp CKD tại Vietnam, Philippines vàThailand . Ngoài ra còn được lắp ráp bộ CKD tại các chi nhánh đối tác của Toyota ở Malaysia và Đài Loan.
Toyota Celica Camry (19801982)
Được giới thiệu lần đầu tiên vào tháng giêng năm 1980 tại thị trường nhà Nhật Bản, Model này về bản chất là thế hệ thứ hai của Toyota Carina với thân vỏ được nâng cấp từ Toyota Celica XX 1978 ( Toyota Supra ở thị trường xuất khẩu).
Thế hệ thứ nhất:
Tên gọi khác: Toyota Vista.
Sản xuất năm: 1983-1986
Kiểu thân vỏ: 5-door hatchback; 4-door sedan
Động cơ: 2.0 L I4; 2.0 L I4 turbodiesel
Năm 1982 đến 1983, Camry trở thành một dòng sản phẩm độc lập, được bán như một xe hạng trung 4 cửa Sedan và 5 cửa Hatchback. Xuất khẩu chủ yếu vào thị trường xe tai lái thuận. Vào thời điểm này Camry có vị trí vượt qua Carina và Corona, hai kiểu xe hạng trung được sản xuất bởi Toyota. Cùng là sản phẩm này nhưng được giới thiệu với cái tên khác đó là Toyota Vista.
Thế hệ thứ hai:
Tên gọi khác: Toyota Vista; Hollden Apollo
Sản xuất năm: 1987-1991
Kiểu thân vỏ: 4-door sedan;b4-door station wagon
Động cơ: 1.8 L I4; 2.0 L I4; 2.5 L V6
Đồng hạng: Lexus ES
Lần trình diễn đầu tiên của thế hệ thứ hai vao năm 1986 cho đến năm 1987, bao gồm cả station wagon và Hatchback. Vào lúc này nó vẫn được đánh giá như một xe ô tô hạng trung. Năm 1988 phiên bản AWD (dẫn động 4 bánh) lần đầu tiên dược giới thiệu với động cơ 2.5 V6, 160 mã lực.
Năm 1991 hệ thống ABS là một sự lựa chọn trong model V6, LE và Wagon.
Năm 1988 nhà máy Toyota Kentuckey bắt đầu sản xuất Camry, gồm có model DX và LE. Động cơ 2.5L và hệ thống khung gầm được sử dụng để lắp ráp cho Lexus ES 250. ES 250 tại thị trường Nhật Bạn là Camry Hardtop.
Thế hệ thứ ba:
Tên gọi khác: Toyota Vista; Hollden Apollo; Toyota Vienta
Sản xuất năm: 1992-1996
Kiểu thân vỏ: 2-door coupe; 4-door sedan; 4-door station wagon
Động cơ: 2.2 L 5S-FE I4; 3.0 L 1MZ-FE V6
Đồng hạng: Toyota Scepter; Lexus ES/Toyota Windom; Toyota Avalon
Thế hệ Camry thứ ba (Lần đầu tiên bán vào năm 1990 tại Nhật, tại Mỹ năm 1992) lần đầu tiên nhắm tới thị trường ô tô lớn nhất, model này không ngừng phát triển, từ một kiểu xe sedan rẻ tiển thành một kiểu sedan gia đình sang trọng hơn.
Tuy nhiên năm 1992 tại Nhật Bản Camry là một chiếc xe khác, đó là Toyota Scepter.
Ở My, hộp số tự động chở thành một lựa chọn cơ bản trong các Model thể thao.
Tại thì trường này, cả hai mẫu động cơ :4 xilanh và 6 xilanh đều được nâng cáp cải tạo: ĐC 4 xilanh nâng lên 2.2L, 130hp và V6 lên 3.0, 186hp.
Song song, Vista tiếp tục được dùng với phiên bản Hardtop Sedan. Tại thị trường nước ngoài phần cơ bản của Camry được dùng cho Lexus ES 300, với động cơ 3.0L V6.
Năm 1994 Toyota đưa ra một phiên bản Coupé của Camry với kiểu dáng rất giống với phiên bản 4 cửa. Loại xe này sẽ giảm trong thế hệ tới, nó là Camry Solara.
Thế hệ thứ tư:
Tên gọi khác: Daihatsu Altis
Sản xuất năm: 1997-2001
Kiểu thân vỏ: 4 door sedan; 4-door station wagon (non-US)
Động cơ: 2.2 L 5S-FE I4; 3.0 L 1MZ-FE V6
Đồng hạng: Lexus ES/Toyota Windom; Toyota Sienna; Lexus RX; Toyota Highlander; Toyota Camry Solara; Toyota Avalon
Thế hệ Camry thứ tư lần đầu ra mắt tại Nhật Bản vào tháng 12/1996. Tiếp tục với hai mẫu Sedan và Station Wagon( gọi là Camry Gracia tại Nhật Bản), Model này được giới thiệu tại Mỹ vào năm 1997, vào năm 2000, mẫu Sedan được nâng cấp bảng đồng hồ (Táp-Lô), còn những cái khác được giữ nguyên như model 1999.
Lexus ES 300 một lần nữa được xây dựng từ Windom, sử dụng khung gầm của Camry.
Camry Solara được gộp lại từ cả hai Coupé và Convertible vào năm 1999.
Tại Mỹ, Camry SE 4 cửa được thu gọn, và model cơ sở được đổi tên thành CE từ năm 1998. Phân loại LE và XLE dùng các động cơ 2.2L I4 và V6 3.0L.
Đây là lần đầu tiên Camry được bán bởi Daihatsu, Daihatsu Altis giống hệt phiên bản xuất khẩu của Camry.
Thế hệ thứ năm:
Một tên gọi khác: Daihatsu Altis
Sản xuất năm: 2002-2006
Kiểu thân vỏ: 4 door sedan
Động cơ: 2.4 L I4; 3.0 L V6 (Australia); 3.3 L V6
Đồng hạng: Lexus ES/Toyota Windom; Toyota Sienna; Lexus RX; Toyota Highlander; Toyota Camry Solara; Toyota Avalon
Tháng chín năm 2001, chiếc Camry cuối cùng được đưa ra như một dòng Sedan lớn hơn(kiểu dáng hấp dẫn lấy cảm hứng từ Vitz, Corolla và Solara Coupé), nhưng không co phiên bản Station Wagon như lần đầu tiên( một mẫu Wagon tương tự được bán tại thị trường nhà Nhật Bản, nhưng bằng cái tên Toyota Mark II Blit). Ở vài nơi khác thì Camry station wagon được thay thế bởi Highlander crossover SUV.
Thế hệ thứ năm hơi giống thế hệ thứ tư ở chỗ cẩ hai đều có những đường cong nhẹ nhàng. Tuy nhiên phần đầu xe hơi ngắn, nhưng lại tăng chiều dài cho khoang hành khách, một công nghệ được tiếp thu từ mẫu xe Compact.
So với thế hệ trước, thế hệ thứ năm cao hơn 2,5 chiều dài cơ sở tăng thêm 2.
Năm 2002 tại thị trường Mỹ, mẫu CE được cắt giảm nhưng mẫu SE thể thao lại được đưa vào. Cả hai mẫu LE và SE đều được trang bị hộp số tay, động cơ 4 xilanh 3.0L, 255hp. Vài model có thể được trang bị động cơ V6 hoặc số AT, tuy nhiên số MT thì không được dùng cho model động cơ V6.
Năm 2002 Camry Solara vẫn được giữ nguyên bộ khung gầm của thế hệ thứ tư, tuy nhiên Solara lại được nâng cấp động cơ 2.4L giống của Camry đang sử dụng.
Năm 2004-2005 Camry giối thiệu mẫu mới, có lưới tản nhiệt mạ Crôm (nhưng dòng SE lại có lưới tản nhiệt thể thao), một thiết kế mới và bộ bánh xe mới nhưng giá thấp hơn Camry LE.
Camry Solara thế hệ thứ hai đựơc giới thiệu vào tháng 8/2004, một lần nữa kiểu xe nàu của Camry lại hoàn toàn khác biệt, thiết kế duyên dáng lấy cảm hứng từ Lexus SC 430. Vẫn là động cơ 2.4L, tuy nhiên có thêm lựa chọn 3.3L V6, hộp số tự động 5 cấp.
Daihatsu tiếp tục với Altis tại thị trường Nhật Bản.
Thế hệ thứ sáu:
Sản xuất năm: 2007
Kiểu thân vỏ: 4-door sedan;2-door coupé (Solara);2-door convertible (Solara)
Động cơ: 2.4 L I4; 3.0 L V6 (Australia); 3.3 L V6
Đồng hạng: Lexus ES/Toyota Windom;Toyota Sienna;Lexus RX;Toyota Highlander;Toyota Camry Solara.
Camry thế hệ thứ sáu là một thiết kế hoàn hảo, nó được lắp ráp tại nhà máy Toyota ở Georgetown, Kentucky và nhà máy Subaru Ấn Độ. Model 2007 lần đầu được ra mắt tại triển lãm quốc tế Auto Show Bắc Mỹ, đi kèm với nó, một phiên bản giống hệt khác là Camry Hybrid (Camry HV)
Camry mới có động cơ 2.4L I4, 158hp, với 4 phiên bản thu gọn: CE, LE, SE, và XLE . Cũng sẽ có những lựa chọn khác như động cơ 3.5L, 268hp, cho các phiên bản LE, SE, và XLE.
Động cơ V6 được trang bị hộp số 6 cấp sequential transmission (dịch chính xác là gì nhỉ?)
Phând đuôi của chiếc xe tương lai này đang được tranh cãi bới nó được thiết kê giống với BMW Series 7 lần đầu tiên được nhìn thấy vào năm 2002.
Nội thất:
Phiên bản LE
Phiên bản SE
Phiên bản XLE
Quá trình sản xuất: 1980 present.
Dựa trên nền tảng: Toyota Corona
Nhóm sản phẩm: Hạng trung.
Đồng hạng với: Chevrolet Impala;Ford Fusion;Honda Accord;Hyundai;Sonata;Mazda Mazda6;Mitsubishi Galant;Nissan Altima; Volkswagen Passat.
Toyota Camry là một mác xe hạng trung, được sản xuất bởi nhà máy Toyota Georgetown (Kentucky Mỹ). Camry được biết đến là một mác xe nổi tiếng, nó bán rất chạy ở Mỹ trong suốt nhiều năm. Mỹ là thị trường lớn nhất của Camry, cũng là nơi gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ như Honda Accord, Mazda 6, Nissan Altima. Ngoài ra Camry còn bán rất chạy ở Australia và vài thị khác ở Châu Á, cá biệt có Campuchia phần lớn ô tô ở đây là Camry. Nó đã không bán chạy ở Châu Âu và Nhật Bản vì bị đánh giá là thiết kế không phù hợp với hai thị trường này. Ở Nhật Bản và Châu Á, đối thủ chính của Camry là Nissan Teana và Honda Accord.
Một nhãn hiệu sang trọng nâng cấp từ Camry được bán dưới cái tên Lexus ES ở thị trường Mỹ, và được biết đến như một hãng ô tô đến từ Nhật Bản.
Cái tên Camry lần đầu tiên được biết đến vào năm 1980 với Toyota Celica Camry. Dòng sản phẩm Toyota Camry độc lập đầu tiên ra mắt vào năm 1982. Nó là kết cấu của một xe sedan, nhưng vào một thời gian khác, nó đã được sử dụng trong các dòng xe Hatchback 5 cửa; 2 cửa coupé và xe Wagon. Một nhánh của Camry là Toyota Camry Solara gồm các phiên bản Coupé và Convertible.
Camry được đưa vào thiết kế lại và nâng cấp ở các đời xe năm 1987, 1992 (1990 ở Nhật Bản), 1997,2002 và mới đây năm 2006.
Khác với phiên bản gốc Celica Camry, Toyota Camry luôn là một chiếc xe được sắp đặt một cách hợp lý. Động cơ được lắp ngang để thuận lợi cho thiết kế dẫn động bánh trước. Có vài mẫu được đưa ra bán với thiết kế dẫn động bốn bánh.
Thế hệ thứ hai và thứ ba Camry được bán với cái tên Hollden Apollo ở Australia, mặc dù hai sản phẩm là tương đương, cùng được sản xuất từ một nhà máy nhưng Hollden đã không thành công. Từ năm 2000 Daihatsu đã bán Camry với một cái tên khác là Altis
Cái tên bắt nguồn từ phiên âm tiếng Anh một từ tiếng Nhật là kanmuri, có nghĩa là crown (Vương miện).
Camry là một trong những chiếc xe được ưa chuộng nhất thị trường Bắc Mỹ, công việc marketing và quản lý bán hàng được tiến hành rất thận trọng.
Camry có vị trí đứng ngay dưới Toyota Avalon và Lexus ES 330 ở hai thị trường lớn nhất là Australia và Bắc Mỹ.
Năm 2000 Camry là sản phẩm của nhà máy Toyota Nhật Bản, Australia và Georgetown, Kentucky, USA. Lắp ráp CKD tại Vietnam, Philippines vàThailand . Ngoài ra còn được lắp ráp bộ CKD tại các chi nhánh đối tác của Toyota ở Malaysia và Đài Loan.
Toyota Celica Camry (19801982)
Được giới thiệu lần đầu tiên vào tháng giêng năm 1980 tại thị trường nhà Nhật Bản, Model này về bản chất là thế hệ thứ hai của Toyota Carina với thân vỏ được nâng cấp từ Toyota Celica XX 1978 ( Toyota Supra ở thị trường xuất khẩu).
Thế hệ thứ nhất:
Tên gọi khác: Toyota Vista.
Sản xuất năm: 1983-1986
Kiểu thân vỏ: 5-door hatchback; 4-door sedan
Động cơ: 2.0 L I4; 2.0 L I4 turbodiesel
Năm 1982 đến 1983, Camry trở thành một dòng sản phẩm độc lập, được bán như một xe hạng trung 4 cửa Sedan và 5 cửa Hatchback. Xuất khẩu chủ yếu vào thị trường xe tai lái thuận. Vào thời điểm này Camry có vị trí vượt qua Carina và Corona, hai kiểu xe hạng trung được sản xuất bởi Toyota. Cùng là sản phẩm này nhưng được giới thiệu với cái tên khác đó là Toyota Vista.
Thế hệ thứ hai:
Tên gọi khác: Toyota Vista; Hollden Apollo
Sản xuất năm: 1987-1991
Kiểu thân vỏ: 4-door sedan;b4-door station wagon
Động cơ: 1.8 L I4; 2.0 L I4; 2.5 L V6
Đồng hạng: Lexus ES
Lần trình diễn đầu tiên của thế hệ thứ hai vao năm 1986 cho đến năm 1987, bao gồm cả station wagon và Hatchback. Vào lúc này nó vẫn được đánh giá như một xe ô tô hạng trung. Năm 1988 phiên bản AWD (dẫn động 4 bánh) lần đầu tiên dược giới thiệu với động cơ 2.5 V6, 160 mã lực.
Năm 1991 hệ thống ABS là một sự lựa chọn trong model V6, LE và Wagon.
Năm 1988 nhà máy Toyota Kentuckey bắt đầu sản xuất Camry, gồm có model DX và LE. Động cơ 2.5L và hệ thống khung gầm được sử dụng để lắp ráp cho Lexus ES 250. ES 250 tại thị trường Nhật Bạn là Camry Hardtop.
Thế hệ thứ ba:
Tên gọi khác: Toyota Vista; Hollden Apollo; Toyota Vienta
Sản xuất năm: 1992-1996
Kiểu thân vỏ: 2-door coupe; 4-door sedan; 4-door station wagon
Động cơ: 2.2 L 5S-FE I4; 3.0 L 1MZ-FE V6
Đồng hạng: Toyota Scepter; Lexus ES/Toyota Windom; Toyota Avalon
Thế hệ Camry thứ ba (Lần đầu tiên bán vào năm 1990 tại Nhật, tại Mỹ năm 1992) lần đầu tiên nhắm tới thị trường ô tô lớn nhất, model này không ngừng phát triển, từ một kiểu xe sedan rẻ tiển thành một kiểu sedan gia đình sang trọng hơn.
Tuy nhiên năm 1992 tại Nhật Bản Camry là một chiếc xe khác, đó là Toyota Scepter.
Ở My, hộp số tự động chở thành một lựa chọn cơ bản trong các Model thể thao.
Tại thì trường này, cả hai mẫu động cơ :4 xilanh và 6 xilanh đều được nâng cáp cải tạo: ĐC 4 xilanh nâng lên 2.2L, 130hp và V6 lên 3.0, 186hp.
Song song, Vista tiếp tục được dùng với phiên bản Hardtop Sedan. Tại thị trường nước ngoài phần cơ bản của Camry được dùng cho Lexus ES 300, với động cơ 3.0L V6.
Năm 1994 Toyota đưa ra một phiên bản Coupé của Camry với kiểu dáng rất giống với phiên bản 4 cửa. Loại xe này sẽ giảm trong thế hệ tới, nó là Camry Solara.
Thế hệ thứ tư:
Tên gọi khác: Daihatsu Altis
Sản xuất năm: 1997-2001
Kiểu thân vỏ: 4 door sedan; 4-door station wagon (non-US)
Động cơ: 2.2 L 5S-FE I4; 3.0 L 1MZ-FE V6
Đồng hạng: Lexus ES/Toyota Windom; Toyota Sienna; Lexus RX; Toyota Highlander; Toyota Camry Solara; Toyota Avalon
Thế hệ Camry thứ tư lần đầu ra mắt tại Nhật Bản vào tháng 12/1996. Tiếp tục với hai mẫu Sedan và Station Wagon( gọi là Camry Gracia tại Nhật Bản), Model này được giới thiệu tại Mỹ vào năm 1997, vào năm 2000, mẫu Sedan được nâng cấp bảng đồng hồ (Táp-Lô), còn những cái khác được giữ nguyên như model 1999.
Lexus ES 300 một lần nữa được xây dựng từ Windom, sử dụng khung gầm của Camry.
Camry Solara được gộp lại từ cả hai Coupé và Convertible vào năm 1999.
Tại Mỹ, Camry SE 4 cửa được thu gọn, và model cơ sở được đổi tên thành CE từ năm 1998. Phân loại LE và XLE dùng các động cơ 2.2L I4 và V6 3.0L.
Đây là lần đầu tiên Camry được bán bởi Daihatsu, Daihatsu Altis giống hệt phiên bản xuất khẩu của Camry.
Thế hệ thứ năm:
Một tên gọi khác: Daihatsu Altis
Sản xuất năm: 2002-2006
Kiểu thân vỏ: 4 door sedan
Động cơ: 2.4 L I4; 3.0 L V6 (Australia); 3.3 L V6
Đồng hạng: Lexus ES/Toyota Windom; Toyota Sienna; Lexus RX; Toyota Highlander; Toyota Camry Solara; Toyota Avalon
Tháng chín năm 2001, chiếc Camry cuối cùng được đưa ra như một dòng Sedan lớn hơn(kiểu dáng hấp dẫn lấy cảm hứng từ Vitz, Corolla và Solara Coupé), nhưng không co phiên bản Station Wagon như lần đầu tiên( một mẫu Wagon tương tự được bán tại thị trường nhà Nhật Bản, nhưng bằng cái tên Toyota Mark II Blit). Ở vài nơi khác thì Camry station wagon được thay thế bởi Highlander crossover SUV.
Thế hệ thứ năm hơi giống thế hệ thứ tư ở chỗ cẩ hai đều có những đường cong nhẹ nhàng. Tuy nhiên phần đầu xe hơi ngắn, nhưng lại tăng chiều dài cho khoang hành khách, một công nghệ được tiếp thu từ mẫu xe Compact.
So với thế hệ trước, thế hệ thứ năm cao hơn 2,5 chiều dài cơ sở tăng thêm 2.
Năm 2002 tại thị trường Mỹ, mẫu CE được cắt giảm nhưng mẫu SE thể thao lại được đưa vào. Cả hai mẫu LE và SE đều được trang bị hộp số tay, động cơ 4 xilanh 3.0L, 255hp. Vài model có thể được trang bị động cơ V6 hoặc số AT, tuy nhiên số MT thì không được dùng cho model động cơ V6.
Năm 2002 Camry Solara vẫn được giữ nguyên bộ khung gầm của thế hệ thứ tư, tuy nhiên Solara lại được nâng cấp động cơ 2.4L giống của Camry đang sử dụng.
Năm 2004-2005 Camry giối thiệu mẫu mới, có lưới tản nhiệt mạ Crôm (nhưng dòng SE lại có lưới tản nhiệt thể thao), một thiết kế mới và bộ bánh xe mới nhưng giá thấp hơn Camry LE.
Camry Solara thế hệ thứ hai đựơc giới thiệu vào tháng 8/2004, một lần nữa kiểu xe nàu của Camry lại hoàn toàn khác biệt, thiết kế duyên dáng lấy cảm hứng từ Lexus SC 430. Vẫn là động cơ 2.4L, tuy nhiên có thêm lựa chọn 3.3L V6, hộp số tự động 5 cấp.
Daihatsu tiếp tục với Altis tại thị trường Nhật Bản.
Thế hệ thứ sáu:
Sản xuất năm: 2007
Kiểu thân vỏ: 4-door sedan;2-door coupé (Solara);2-door convertible (Solara)
Động cơ: 2.4 L I4; 3.0 L V6 (Australia); 3.3 L V6
Đồng hạng: Lexus ES/Toyota Windom;Toyota Sienna;Lexus RX;Toyota Highlander;Toyota Camry Solara.
Camry thế hệ thứ sáu là một thiết kế hoàn hảo, nó được lắp ráp tại nhà máy Toyota ở Georgetown, Kentucky và nhà máy Subaru Ấn Độ. Model 2007 lần đầu được ra mắt tại triển lãm quốc tế Auto Show Bắc Mỹ, đi kèm với nó, một phiên bản giống hệt khác là Camry Hybrid (Camry HV)
Camry mới có động cơ 2.4L I4, 158hp, với 4 phiên bản thu gọn: CE, LE, SE, và XLE . Cũng sẽ có những lựa chọn khác như động cơ 3.5L, 268hp, cho các phiên bản LE, SE, và XLE.
Động cơ V6 được trang bị hộp số 6 cấp sequential transmission (dịch chính xác là gì nhỉ?)
Phând đuôi của chiếc xe tương lai này đang được tranh cãi bới nó được thiết kê giống với BMW Series 7 lần đầu tiên được nhìn thấy vào năm 2002.
Nội thất:
Phiên bản LE
Phiên bản SE
Phiên bản XLE
Chỉnh sửa cuối: