[Funland] Aleksey Volynets - sách và bài viết

danngoc

Xe tăng
Biển số
OF-33488
Ngày cấp bằng
12/4/09
Số km
1,152
Động cơ
488,614 Mã lực
Tôi tạo mục này giao lưu chia sẻ các bài viết tôi dịch về lịch sử của tác giả Aleksey Volynets phần lớn đăng trên website của TASS.

Bài 1
“Sao cho bài quốc ca vừa là người bạn thân thiết vừa là nguồn cảm hứng…”. Kỷ niệm 140 năm ngày sinh nhà soạn nhạc Aleksandrov

Aleksey Volynets, 13/4/2023
Bản quốc ca nước ta có một số phận gian nan. Được sinh ra giữa cuộc chiến tranh đầy chết chóc, trong các thế hệ tiếp theo, dưới cái ách của hệ thống chính trị, nó được sử dụng chính thức với những phần lời khác nhau. Đã có lúc - thậm chí không có cả phần lời. Chỉ phần nhạc của bài quốc ca là không thay đổi. Nó nổi tiếng không chỉ ở Nga, mà còn vượt xa biên giới đất nước - đây là công lao vĩnh viễn của Aleksandr Aleksandrov. Nhân kỷ niệm 140 năm ngày sinh của ông, chúng ta sẽ kể về nhà soạn nhạc kiệt xuất của đất nước.


Từ ca đoàn nhà thờ đến nhạc viện
Người sáng tác tương lai giai điệu chủ đạo của đất nước sinh ngày 13 tháng 4 năm 1883 tại làng Plakhino, gần Ryazan. Cha của ông là hạ sĩ quan đã nghỉ hưu Vasily Aleksandrovich Koptelov, nhưng nông dân thời đó thường không có họ, tài liệu về việc này rất hiếm. Vì vậy, đứa bé sơ sinh được ghi là "Alexandrov" - theo phụ danh [1] của người cha. Tên được đặt để vinh danh ông nội. Vậy là, theo mọi mặt, Aleksandr Vasilyevich Aleksandrov đã ra đời.
Nguồn gốc nông dân vào thời điểm đó không ngụ ý một số phận dễ dàng và một sự nghiệp rực rỡ. Nhưng tác giả tương lai của bài quốc ca đã gặp may với âm nhạc từ khi mới đẻ. Mẹ của ông, Nastasya Nikitichna Aleksandrova (có họ khi mới sinh là Gorbatova
[2]), là người đầu tiên trong làng biểu diễn dân ca. Vì vậy, những giai điệu nông dân Nga đã bao quanh con trai bà kể từ tuổi ấu thơ.
Khi lớn lên vào một trường tiểu học zemstvo
[3], anh là học trò của Semyon Shagov, người không chỉ là phó tế của nhà thờ Thánh Gioan Tông đồ [4] trong làng, mà còn là nghệ sĩ biểu diễn sử thi dân gian. Cậu bé Sasha [5] được học chơi đàn gió và đàn balalaika từ ông.
Khả năng âm nhạc của cậu bé hát rất hay trong dàn hợp xướng nhà thờ đã được những người xung quanh chú ý. Gia đình cậu có một người thân sống ở Peterburg, và ông này đã giúp tài năng trẻ chuyển đến thủ đô của Đế quốc Nga. Nhờ vậy, con trai người nông dân từ vùng Ryazan trở thành thành viên trong ca đoàn của Thánh đường Kazan
[6].
Tại thủ đô, cậu thiếu niên tài năng không bị lạc lõng. Là một trong những ca sĩ giỏi nhất của Thánh đường Kazan, sau khi vượt qua các kỳ thi khó khăn, anh được chọn vào Dàn hợp xướng Triều đình
[7]. Ở đó, Aleksandrov không chỉ được đào tạo về âm nhạc cổ điển mà còn hơn một lần được biểu diễn trước hoàng gia.
Bước sang thế kỷ mới, năm 1900, ông vào học Nhạc viện Peterburg - học với Aleksandr Glazunov và Anatoly Lyadov, những nhà soạn nhạc và nhạc trưởng nổi tiếng thời đại đó. Nhưng gốc gác nông dân đã gây trở ngại - chàng trai trẻ không có phương tiện để tiếp tục học hành, cha mẹ anh nghèo và không thể giúp gì. Ở tuổi 20, Alexandrov rời nhạc viện chính của đất nước. Và anh bắt đầu cuộc đời một giáo viên dạy nhạc bình thường - đầu tiên ở Bologoye, sau đó ở Tver, anh làm việc với tư cách quản trị (đứng đầu) các dàn hợp xướng nhà thờ và làm giáo viên dạy hát ở các trường tiểu học và trung học địa phương.
Tuy nhiên, trong cuộc sống thường ngày, Aleksandr không quên sự sáng tạo - chính trong những năm đó, anh đã viết ra bản giao hưởng đầu tiên "Thần chết và Cuộc đời" của mình. Anh không từ bỏ ý định hoàn thành chương trình giáo dục âm nhạc nâng cao của mình - năm 1909, anh vào học Nhạc viện Moskva. Anh đã hoàn thành với nó hai lần được huy chương bạc lớn - vào năm 1913 trong lớp sáng tác và vào năm 1916 trong lớp hát.
Aleksandrov là một tài năng, hơn nữa, tài năng âm nhạc của anh có những nét đặc trưng và cội nguồn - sự kết hợp hữu cơ giữa truyền thống âm nhạc dân gian, các quy tắc ca hát trong nhà thờ và âm nhạc cổ điển. Điều này được phản ánh rõ trong hồi ký của một trong những người bạn cùng lớp cùng làng với anh: “Từ hồi tiểu học, Aleksandr đã khiến mọi người ngạc nhiên với tài năng nắm bắt các giai điệu nhà thờ và các bài hát dân gian một cách bay bổng... Tôi nhớ rằng khi ấy anh rất thích các nhạc cụ dân gian - đàn gió và đàn balalaika... Cuối hè, Aleksandr về nghỉ hè ở làng quê và mang theo cây vĩ cầm... "
Từ nhạc lễ cho đến quân khúc
Ngay trước năm 1917, Aleksandrov đã là nhà soạn nhạc có uy tín, một chỉ huy dàn hợp xướng và nhạc trưởng giàu kinh nghiệm, tác giả một bản giao hưởng và hai vở opera. Ông, một người con nông dân, đã chào mừng cách mạng một cách nhiệt thành. Nhưng ông không bao giờ thích chính trị - ông chỉ sống với âm nhạc.
Với sự sụp đổ của chế độ quân chủ ở Nga, chế độ thượng phụ được khôi phục, và vào năm 1918, Thượng phụ Tikhon đã mời Aleksandrov đến Moskva làm trưởng dàn hợp xướng Thánh đường Chúa Cứu thế. Tại thủ đô của nước Nga Xô viết, nhà soạn nhạc không chỉ dẫn dắt dàn hợp xướng trong nhà thờ mà còn giảng dạy tại các trường âm nhạc, hợp tác với các nhà hát thành phố.
Công việc của Aleksandr Aleksandrov trong thời kỳ đó thực sự độc đáo - ông đã đồng thời viết các thánh ca cho lễ nhà thờ và phần nhạc cho những bài hát cách mạng. Năm 1926, ông đã dàn dựng một buổi hòa nhạc tôn giáo "Xin Chúa thương xót con", rồi ngay sau đó - sáng tác "Tập đoàn quân Kỵ binh số 1" và "Bài ca Hạm đội Đỏ".
Năm 1928, Aleksandrov trở thành một trong những người tổ chức lớp nhạc trưởng quân đội, khoa quân sự tương lai của Nhạc viện Moskva. Sau đó, theo gợi ý của Dân ủy (Bộ trưởng) Quốc phòng Voroshilov, nhà soạn nhạc đã tổ chức một đoàn hát tại Nhà Hồng quân Trung ương. Aleksandrov không chỉ mời những quân nhân tài năng mà cả các hợp xướng viên nhà thờ đến với Đoàn hát Hồng quân.
Từ đó trở đi, toàn bộ cuộc đời và lao động của Aleksandr Vasilyevich Aleksandrov sẽ gắn kết với tập thể âm nhạc đến nay vẫn tồn tại và mang tên ông một cách xứng đáng. Tập hợp hàng trăm ca sĩ, vũ công và nhạc sĩ, đoàn ca múa quân đội vào thời điểm thành lập là chưa từng có tiền lệ, là đội ngũ sáng tạo đầu tiên của loại hình này trên thế giới.
Sản phẩm trí tuệ của Aleksandrov đã thành công không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài – đoàn hát đã giành giải Grand Prix tại Triển lãm Thế giới Paris năm 1937. Các tờ báo của Pháp viết: “Ta có thể so sánh một dàn hợp xướng như vậy với cái gì?.. Làm sao mà không bị thu hút bởi sự linh hoạt và tinh tế của các sắc thái, sự thuần khiết của âm thanh, đồng thời là tinh thần đồng đội biến các ca sĩ thành một nhạc cụ tuyệt vời duy nhất. Ban nhạc này đã chinh phục Paris... Một đất nước có những nghệ sĩ như vậy thật đáng tự hào."
Thành công sáng tạo của Đoàn hát Aleksandrov có ý nghĩa khá lớn về mặt chính trị, bởi tại cuộc triển lãm đó, nghệ thuật và thành tựu của Liên Xô đã cạnh tranh công khai với tính thẩm mỹ và công nghệ của Đế chế Đức Quốc xã mới thành lập.
Nhà soạn nhạc Aleksandrov đã tham gia Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại không chỉ với tư cách một nghệ sĩ được vinh danh mà còn với tư cách một quân nhân. Trong vai trò người đứng đầu đoàn quân nhạc chính của đất nước, ông được phong lữ đoàn trưởng
[8] từ thập niên 1930.
Ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc chiến khủng khiếp, Aleksandr Vasilyevich đã phát huy hết tài năng của mình để chiến đấu với kẻ thù. Bài hát nổi tiếng "Vùng lên, hỡi đất nước rộng lớn"
[9] ra đời vào ngày 25 tháng 6 năm 1941. Hôm trước, các tờ báo đã đăng bài thơ "Cuộc chiến tranh thần thánh" của Vasily Lebedev-Kumach. Theo những người chứng kiến, những bài thơ đã gây ấn tượng mạnh mẽ với Aleksandrov đến nỗi nhà soạn nhạc ngay lập tức lao vào sáng tác nhạc cho nó - ông dùng phấn viết các nốt nhạc lên bảng đen, và các nhạc sĩ trong đoàn hát của ông ngay lập tức học được các hợp âm.
Buổi ra mắt bài hát diễn ra vào buổi tối hôm sau tại nhà ga đường sắt Belorusskaya, từ đó các đoàn tàu quân sự tiến ra mặt trận thành một dòng chảy liên tục. Đồng thời, hầu hết các nhạc sĩ của đoàn đã ra mặt trận.
"Đây là quốc ca của một đất nước hùng mạnh..."
Với bài hát này, Aleksandrov đã bất tử hóa tên tuổi của mình với tư cách là người sáng tạo và nhạc sĩ. Nhưng ông còn có một thành công khác thật khác thường và bất ngờ. Năm 1943, các cơ quan có thẩm quyền cao nhất của đất nước đã công bố một cuộc thi sáng tạo - yêu cầu sáng tác bài quốc ca mới.
Hơn 170 nhà soạn nhạc đã tham gia cuộc thi, hàng trăm bản nhạc và hàng chục bài thơ đã được trình bày.
Điều gây tò mò là người đứng đầu chính thức của cuộc thi, Nguyên soái Voroshilov, thoạt tiên không nghiêng về bản nhạc của Aleksandrov, mà nghiêng về giai điệu của các nhà soạn nhạc tài năng nổi tiếng không kém là Shostakovich và Khachaturian. Cuộc thi không hề dễ dàng, hơn nữa, việc bản thân Aleksandrov nằm trong số những ứng cử viên cho bài quốc ca, cũng không hẳn hoàn toàn theo mong muốn cá nhân của ông. Như ta đã biết, tác giả của bài thơ mà cuối cùng được đưa thành lời bài hát chính của đất nước là các nhà thơ Sergei Mikhalkov và Gabriel El-Registan. Mikhalkov kể lại việc bắt tay vào viết lời của bài quốc ca như sau: "Chúng tôi nhớ đến "Bài tụng ca của Đảng Bolshevik"
[10] thường được nghe trên đài phát thanh với lời của V.I. Lebedev-Kumach trên nền nhạc của A.V. Aleksandrov. Chúng tôi quyết định lấy câu đầu tiên của bài hát này làm cơ sở cho thể thơ..."
Tuy nhiên, lựa chọn của Mikhalkov và El-Registan hoàn toàn không xác định trước ai là người chiến thắng trong phần âm nhạc. Các nhà thơ là những người đầu tiên gửi phiên bản quốc ca của họ không phải cho Aleksandrov, mà cho Shostakovich. Trong trận chung kết của cuộc thi, hai nhà soạn nhạc này đã phải đấu lấy giải giai điệu chính của đất nước.
Tháng 12 năm 1943, sau khi nghe tất cả các biến thể của bản nhạc quốc ca, Stalin bắt đầu nghiêng về giai điệu của Alexandrov. Nguyên soái Voroshilov sau đó phản đối rằng giai điệu này chỉ có thể được biểu diễn tốt bởi chính đoàn hát của Aleksandrov. Voroshilov được hỗ trợ bởi Mikhail Khrapchenko, Chủ tịch Ủy ban Nghệ thuật (tức là Bộ trưởng Bộ Văn hóa thời đó), lưu ý rằng "một người bình thường sẽ rất khó hát bài quốc ca này". Và khi ấy, như chính Khrapchenko sau này nhớ lại, Stalin không phản đối - trước sự ngạc nhiên của mọi người, ông đơn giản là hát lên giai điệu của Aleksandrov.
[11]
Theo Mikhalkov, khi kết thúc cuộc thi, nhà lãnh đạo Liên Xô đã nói với Shostakovich: "Bài nhạc của anh nghe rất du dương, nhưng anh không thể hơn được, bởi bản quốc ca của Aleksandrov phù hợp hơn vì âm điệu trang nghiêm. Đây là quốc ca của một đất nước hùng mạnh, nó phản ánh sức mạnh của nhà nước và niềm tin vào chiến thắng".
Vậy là từ ngày 1-1-1944, Tổ quốc ta, đang trên đường tới chiến thắng, đã tìm ra được giai điệu chủ đạo
[12]. Nhưng chúng tôi xin lưu ý rằng Aleksandrov, với tất cả tầm quan trọng của quốc ca, trong những ngày đó có những nhiệm vụ khác không kém phần quan trọng. Trong những năm chiến tranh, đoàn hát của ông đã tổ chức hơn 1,5 nghìn buổi biểu diễn ngoài mặt trận, nâng cao tinh thần của những người lính Xô viết.
Bản thân nhà soạn nhạc chỉ sống thêm một thời gian ngắn sau lần vinh quang ấy và chiến thắng chung cuộc. Mùa hè của năm đầu tiên sau chiến tranh, trong chuyến công du của đoàn tới các đơn vị quân đội ở trung tâm Châu Âu, Aleksandr Aleksandrov đã dừng chân ở Berlin, nơi ông ở lại một ngày. Hôm đó là ngày cuối cùng của đời ông - đêm 8 tháng 7 năm 1946, Aleksandr Vasilyevich qua đời trong giấc ngủ. Tim ngừng đập.
Đối với chúng ta, giai điệu của ông vẫn sống. Cả giai điệu này lẫn bài quốc ca của chúng ta, mà chính nhà soạn nhạc đã nói đến như sau: "Trong bài quốc ca Liên Xô, tôi muốn kết hợp các thể loại của một cuộc hành quân chiến thắng, một bài hát dân gian, một bản trường ca sử thi Nga mênh mông... Tôi muốn sao cho bài quốc ca vừa là người bạn thân thiết vừa là nguồn cảm hứng cho mọi công dân".


[1] Cấu trúc tên họ người Nga gồm “tên” + “phụ danh” + “họ”. Ví dụ Aleksandr Vasilyevich Aleksandrov được hiểu là ông Aleksandr con trai Vasily họ nhà Aleksandrov. Trong giao tiếp, người ta thường gọi theo tên kèm phụ danh (Aleksandr Vasilyevich) để tỏ ý trân trọng. - ND
[2] Đối với phụ nữ Nga, khi khai sinh sẽ mang họ cha, sau khi lấy chồng thì sẽ mang họ chồng. - ND
[3] Zemstvo: sau cuộc giải phóng nông dân 1861, dưới sự cháp thuận của Sa hoàng Aleksandr II, tại các đơn vị hành chính ở mỗi địa phương tổ chức những hội đồng tự quản dân bầu (ở mỗi huyện và lên đến cấp tỉnh) gọi là zemstvo. Mỗi zemstvo gồm 1 đại diện chính quyền và ban đại diện dân bầu bao gồm đủ 5 tầng lớp xã hội (đại địa chủ, điền chủ nhỏ, phú thị dân, thị dân, nông dân). Các zemstvo có thẩm quyền và sự độc lập nhất định để giải quyết các vấn đề dân sự tại địa phương. - ND
[4] Thánh Gioan Tông đồ (Иоанн Богослов / John the Apostle): một trong 12 tông đồ của Chúa Giê-su. - ND
[5] Sasha: tên gọi thân mật của Aleksandr. - ND
[6] Thánh đường Kazan: Kazanskiy Kafedralniy Sobor, còn gọi là Thánh đường Đức Mẹ Kazan, là một nhà thờ của Nhà thờ Chính thống Nga trên đại lộ Nevsky Prospekt ở Saint-Petersburg. Nó được dành riêng cho Đức Mẹ Kazan, một trong những biểu tượng được tôn kính nhất ở Nga. - ND
[7] Dàn hợp xướng Triều đình (Придворная Певческая капелла): Được thành lập khoảng năm 1740 theo sắc lệnh Nữ hoàng Anna Ioannovna. Là dàn đồng ca nghệ thuật và có tổ chức duy nhất của quốc gia, Dàn hợp xướng Triều đình tham gia vào tất cả các sự kiện âm nhạc được tổ chức tại thủ đô. Dàn hợp xướng mang đến cho sân khấu opera nhiều nghệ sĩ độc tấu được biết đến rộng rãi trong giới âm nhạc thời bấy giờ. Mikhail Ivanovich Glinka từng giữ chức giám đốc Dàn hợp xướng từ 1837-1840. Năm 1883, Mily Alekseevich Balakirev được bổ nhiệm làm giám đốc Dàn hợp xướng, còn Nikolai Andreevich Rimsky-Korsakov làm phó cho ông. Sự cộng tác giữa Balakirev và Rimsky-Korsakov trong 10 năm là cả một kỷ nguyên phát triển việc biểu diễn, giáo dục và đào tạo trong Dàn hợp xướng. - ND
Nguồn tham khảo: https://capella-spb.ru/ru/tvorcheskij-sostav/pevcheskaya-kapella

[8] Kombrig (комбриг, viết tắt của командир бригады): cấp bậc lữ đoàn trưởng trong Hồng quân Công Nông thời kỳ trước 1940 (tương đương cấp thiếu tướng sau 1940) và được quen gọi tới tận năm 1943. - ND
[9] “Vùng lên, hỡi đất nước rộng lớn” (Вставай, страна огромная!) còn có tên là “Cuộc chiến tranh thần thánh” (Священная война): nhạc A. Alexandrov, lời V. Lebedev-Kumach. - ND
[10] Chúng ta có thể nghe bản năm 1938: https://www.youtube.com/watch?v=xbCaSasMHYo
[11] Dmitri Dmitrievich Shostakovich sẽ không bao giờ quên thất bại đau đớn này. Trong hồi ký “Lời khai” (chỉ xuất bản sau khi ông mất) của mình, Shostakovich công khai sự xem thường đối với Đoàn hát Hồng quân Aleksandrov và tất cả những gì liên quan đến nó. - ND
[12] Cho tới trước lúc này, Liên Xô sử dụng bài “Quốc tế ca” làm bài quốc ca. - ND

P/S: năm 2016, người dịch có tới Nghĩa trang Vagankovo và hỏi tìm mộ cụ nhưng không một ai biết. Đọc cuốn hồi ký của Shostakovich thấy cụ Shos chê bai cụ Alex là tầm thường, nhưng chắc do bản quốc ca của cụ Shos không được Stalin chọn nên các thiên tài đâm không ưa nhau.
 
Chỉnh sửa cuối:

XSim

Xe container
Biển số
OF-698009
Ngày cấp bằng
8/9/19
Số km
9,650
Động cơ
851,584 Mã lực
Hai tác phẩm của cụ Alexandrov trong bài đã đi vào lịch sử Liên Xô và nước Nga sau này.

Quốc ca Liên Xô
Cuộc chiến tranh thần thánh, biểu diễn bởi đoàn nhạc Alexandrov
 
Biển số
OF-159482
Ngày cấp bằng
5/10/12
Số km
14,938
Động cơ
485,089 Mã lực
Chịu, một khối chữ dài dằng dặc, còn màu mè nữa.
Chờ cụ dưới tóm tắt.
 

XSim

Xe container
Biển số
OF-698009
Ngày cấp bằng
8/9/19
Số km
9,650
Động cơ
851,584 Mã lực
Chịu, một khối chữ dài dằng dặc, còn màu mè nữa.
Chờ cụ dưới tóm tắt.
Cụ ấy chia sẻ bài viết về cuộc đời tác giả Quốc ca Liên Xô và cũng là Quốc ca Nga ngày nay (đã sửa lại lời). Nhạc sĩ Alexandrov cũng là tác giả Cuộc chiến tranh thần thánh, bài hát được cất lên đầu tiên trong mỗi lần duyệt binh chiến thắng phát xít ở Liên Xô và Nga sau này.
 

danngoc

Xe tăng
Biển số
OF-33488
Ngày cấp bằng
12/4/09
Số km
1,152
Động cơ
488,614 Mã lực
Glinka suýt nữa thì là tác giả quốc ca Nga
 

danngoc

Xe tăng
Biển số
OF-33488
Ngày cấp bằng
12/4/09
Số km
1,152
Động cơ
488,614 Mã lực
Alexey Volynets: Nếu quân nhân CHDCND Triều Tiên xuất hiện ở Donbass, chúng ta sẽ thấy rất nhiều sự cuồng loạn gây tò mò ở phương Tây

https://ukraina.ru/20240627/1055888302.html

Lực lượng vũ trang Ukraine có lực lượng dự bị về kỹ thuật và nhân lực để thực hiện một cuộc phản công mới. Nhưng mọi thứ sẽ kết thúc giống như vào năm 2023. Tuy nhiên, không cần thiết phải tự lừa dối mình. Lực lượng vũ trang Nga cũng chỉ có thể thực hiện một cuộc tấn công hạn chế mang tính chiến thuật, có lẽ mang lại rất ít kết quả hoạt động. Cả hai bên đều chưa sẵn sàng cho những đột phá chiến lược và bao vây các thành phố.
Nhà báo và nhà báo Nga, nhà văn, tác giả của nghiên cứu lịch sử “Những khẩu pháo gỗ của Trung Quốc và Nga giữa Liên minh và Xung đột” Alexey Volynets đã nói về điều này trong một cuộc phỏng vấn với Ukraina.ru.
Thư ký báo chí của Tổng thống Nga Dmitry Peskov không bình luận về thông tin CHDCND Triều Tiên sẽ cử lực lượng xây dựng và công binh quân sự tham gia công tác khôi phục ở CHDCND Triều Tiên.
- Alexey, trên kênh TG của mình, bạn đã viết rằng sau khi ký kết hiệp ước hỗ trợ lẫn nhau giữa Nga và CHDCND Triều Tiên, một liên minh quân sự-chính trị của các cường quốc hạt nhân đã nổi lên như một giải pháp thay thế cho NATO phương Tây. Nếu Bình Nhưỡng thực sự cử lực lượng xây dựng quân sự tới Donbass, liệu phương Tây có coi đây là sự tham gia trực tiếp của Triều Tiên vào cuộc chiến ở Ukraine?
- Không khó để dự đoán điều này, bởi vì truyền thông phương Tây “yêu” Triều Tiên và lần nào cũng chỉ trích: hoặc một vị tướng Triều Tiên được cho là sẽ bị xử bắn bằng pháo phòng không, hoặc điều gì khác. Vì vậy, chúng ta có thể mong đợi khá nhiều sự cuồng loạn thú vị trên các phương tiện truyền thông phương Tây. Tôi nghĩ giới lãnh đạo quân sự phương Tây hiểu rằng chúng ta chưa nói về việc tham gia trực tiếp vào một cuộc xung đột quân sự.
Là một người đã đến thăm Mariupol vào năm 2022 và tháng 5 năm ngoái, tôi hiểu rằng ở đó cần có công nhân xây dựng và người Triều Tiên hoàn toàn có khả năng làm việc này, và trước khi áp dụng lệnh trừng phạt, đã có khá nhiều công nhân xây dựng người Triều Tiên làm việc ở Nga. Họ được mô tả là những người làm việc tốt và không gây ra vấn đề di cư.
- Nếu thông điệp này là đúng, thì chúng ta vẫn đang nói về những quân nhân sẽ ở trong khu vực chiến đấu, nơi không loại trừ tử vong và thương tích. Liệu đây có phải là nguyên nhân gây ra một cuộc xung đột mới, bao gồm cả trên Bán đảo Triều Tiên?
- Các sự kiện hiện đang diễn ra với tốc độ chóng mặt đến mức không thể loại trừ được điều gì. Một cuộc chiến tranh lạnh mới chỉ cách một cuộc chiến tranh thế giới mới vài bước. Có thể có bất kỳ lựa chọn nào, bao gồm cả phản ứng không thỏa đáng từ phía Hàn Quốc.
- Phản ứng của Seoul trước các liên hệ giữa Moscow và Bình Nhưỡng đã diễn ra theo sau. Lần đầu tiên sau 7 năm, Thủy quân lục chiến Hàn Quốc tiến hành tập trận bắn đạn thật gần biên giới Triều Tiên. Phản ứng của Nga sẽ ra sao nếu xung đột trên bán đảo Triều Tiên chấm dứt?
- Các cuộc diễn tập quân sự nghiêm túc thường được tổ chức ở hai bên vĩ tuyến 38. Người Mỹ hàng năm tiến hành các cuộc tập trận của các nhóm tàu sân bay tấn công hạt nhân ngoài khơi Triều Tiên. Nhưng không ai chú ý đến điều này cho đến năm 2022.
Là một người đã đến thăm Triều Tiên nhiều lần, tôi biết rằng người Hàn Quốc luôn thúc đẩy việc xuất hiện bom hạt nhân bởi việc Hải quân Mỹ tiến hành các cuộc tập trận nghiêm túc hàng năm. Vì vậy, đây không phải là điều mới mẻ đối với người Triều Tiên. Cũng có khả năng Nga sẽ tham gia vào các sự kiện này theo cách nào đó theo thỏa thuận đã ký kết.
- Sau thảm kịch ở Sevastopol, khi dân thường thiệt mạng trong một cuộc tấn công tên lửa của Lực lượng vũ trang Ukraine, Bộ Quốc phòng Nga đã trực tiếp cáo buộc quân đội Mỹ rằng tất cả các nhiệm vụ bay của tên lửa tác chiến-chiến thuật ATACMS đều do các chuyên gia Mỹ thực hiện. Phải chăng phía Nga cố tình tránh bắn hạ UAV Mỹ trên Biển Đen để không leo thang xung đột?
- Cho đến gần đây, chúng tôi vẫn tránh tương tác mạnh mẽ với các máy bay không người lái trinh sát trên Biển Đen. Gần đây, xuất hiện thông tin cho biết một máy bay không người lái đã bị bắn hạ hoặc bị đuổi đi. Nhưng hiện tại, tất cả đều là tin đồn trên Internet.
Được biết, lực lượng Houthi đã bắn hạ các UAV trinh sát và tấn công như vậy và đã có video xác nhận. Trong tương lai gần, chúng ta không thể làm gì nếu không leo thang xung đột hơn nữa. Ở mức tối thiểu, vùng cấm bay phải được thiết lập trên một số phần của biển.
Và quân đội Mỹ thực sự phải chịu trách nhiệm về mọi việc, bởi vì Lực lượng vũ trang Ukraine với tư cách là quân đội đã kết thúc vào năm 2023. Nếu không có sự hỗ trợ đầy đủ về tình báo và tỷ lệ hỗ trợ vật chất cao, Lực lượng vũ trang Ukraine đã bị đánh bại. Nếu không có quân đội phương Tây, cuộc chiến, trong những kịch bản tốt nhất đối với Lực lượng vũ trang Ukraine, sẽ kết thúc trong vòng một năm rưỡi. Nếu không có sự hỗ trợ kỹ thuật quân sự từ phương Tây, Lực lượng vũ trang Ukraine có thể đã sụp đổ vào năm ngoái.
- Việc cựu Thủ tướng Hà Lan Mark Rutte xác nhận chức vụ Tổng thư ký NATO trùng hợp với thực tế là đang có tin đồn về một cuộc tấn công mới của Lực lượng vũ trang Ukraine. Ngoài ra, phóng viên quân sự Sladkov mới đây đưa tin rằng hiện nay Lực lượng vũ trang Ukraine đã đáp trả 3 phát đạn từ phía chúng tôi bằng 20 phát đạn, mặc dù một tuần trước mọi thứ lại diễn ra ngược lại. Phải chăng Lực lượng Vũ trang Ukraine sẽ cố gắng phục hồi sau thất bại một năm trước?
- Theo những gì tôi thấy, Lực lượng Vũ trang Ukraine có lực lượng dự bị về kỹ thuật và nhân lực để thực hiện một cuộc phản công mới. Nhưng những nỗ lực này sẽ giống như vào năm 2023.
Nhưng không cần phải tự lừa dối mình. Các lực lượng vũ trang của Liên bang Nga cũng chỉ có thể thực hiện một cuộc tấn công hạn chế với kết quả hoạt động mang tính chiến thuật, có lẽ là nhỏ. Cả hai bên đều chưa sẵn sàng cho những đột phá chiến lược và bao vây các thành phố.
- Rutte đã được đề cập và ứng cử viên cho vị trí người đứng đầu cơ quan ngoại giao châu Âu, Kaya Kallas, nổi tiếng là những người bài Nga. Có phải chúng ta đang mong đợi một sự leo thang thậm chí còn lớn hơn liên quan đến sự xuất hiện của những người này vào các vị trí chủ chốt trong cơ cấu chính trị quân sự của phương Tây?
- Chắc chắn rồi. Phương Tây quyết tâm tiếp tục cuộc chiến này. Miễn là nó có tâm trạng và khả năng cho việc này. Chúng tôi đã biết thái độ của Hà Lan đối với chúng tôi từ năm 2014, sau vụ tai nạn máy bay Boeing, họ ngay lập tức đổ lỗi cho Nga mà không bao giờ nghi ngờ về phiên bản kỳ lạ này. Vì vậy, với sự xuất hiện của những kẻ bài Nga chuyên nghiệp này, chúng ta sẽ phải đối mặt với tình trạng leo thang.
Về cuộc đàm phán giữa người đứng đầu bộ quốc phòng Nga và Hoa Kỳ trong bài viết Về máy bay không người lái trong chiến thắng của chúng ta. Phương Tây tiếp tục thuyết phục Nga tham gia vào cuộc đấu tranh của mình
 

danngoc

Xe tăng
Biển số
OF-33488
Ngày cấp bằng
12/4/09
Số km
1,152
Động cơ
488,614 Mã lực
“Người Đức coi mối nguy hiểm ở phương Tây là một trò lừa bịp”: họ đã trì hoãn việc mở mặt trận thứ hai như thế nào
Aleksey Volynets - nhân kỷ niệm 80 năm ngày lực lượng đồng minh của Hoa Kỳ và Anh đổ bộ vào Normandy
https://tass.ru/opinions/20979487

“Tình hình quân sự của Liên Xô sẽ được cải thiện đáng kể nếu một mặt trận chống Hitler được mở ở phía Tây…” – đó là những lời của Joseph Stalin trong thông điệp gửi Churchill tháng 7 năm 1941. Nhưng gần hai năm trôi qua trước khi một mặt trận như vậy xuất hiện ở trung tâm châu Âu. Chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu điều gì đã xảy ra trước cuộc đổ bộ nổi tiếng ở Normandy và tại sao nó chỉ diễn ra vào cuối Thế chiến.

"Sự kháng cự của Nga mang đến cho chúng ta những cơ hội mới ..."
Chúng tôi sẽ làm mọi thứ để giúp các bạn…” - cụm từ trong thông điệp đầu tiên mà Thủ tướng Đế quốc Anh gửi đến người đứng đầu Liên Xô, được gửi ngay sau cuộc tấn công của Adolf Hitler vào Liên Xô. Thông điệp chứa đựng sự ngưỡng mộ rất tâng bốc đối với Hồng quân, nhưng không có gì hơn - Thủ tướng Winston Churchill, trong khi đảm bảo sự giúp đỡ của ông, lại không hứa hẹn bất cứ điều gì cụ thể. Stalin nói rõ hơn nhiều trong câu trả lời của mình: “Một mặt trận ở phía bắc nước Pháp có thể đẩy lùi lực lượng của Hitler từ phía đông… Tôi có thể tưởng tượng ra khó khăn khi tạo ra một mặt trận như vậy, nhưng đối với tôi, có vẻ như, bất chấp những khó khăn đó, nó phải được tạo ra không chỉ vì lợi ích chung của chúng ta mà còn vì lợi ích của chính nước Anh."

Từ lời kêu gọi này, được gửi đến London ngày 18 tháng 7 năm 1941, thật đáng để điểm lại lịch sử của Mặt trận thứ hai - mặt trận của các nước Đồng minh phương Tây, Anh và Mỹ, chống lại Hitler. Từ đây cho đến khi đổ bộ vào Normandy, 1.054 ngày sẽ trôi qua. Và suốt những ngày tháng này, vấn đề về mặt trận thứ hai vẫn là vấn đề then chốt trong giao tiếp ngoại giao của Liên Xô với những nước khác tham gia liên minh chống Hitler.

Hơn nữa, vấn đề mặt trận thứ hai có lẽ là thời điểm duy nhất đôi khi trong giọng điệu thận trọng và cực kỳ lịch sự ở các thông điệp của Stalin gửi chính quyền phương Tây bộc lộ sự khó chịu rõ ràng.

Bọn Đức coi mối đe dọa ở phía Tây là một trò lừa bịp và chuyển toàn bộ lực lượng của chúng từ phía Tây sang phía Đông mà không bị trừng phạt, tin chắc rằng không có và sẽ không có bất kỳ mặt trận thứ hai nào ở phía Tây... Tôi nghĩ rằng có chỉ có một cách duy nhất để thoát khỏi tình huống này: thành lập mặt trận thứ hai trong năm nay ở đâu đó ở Balkan hoặc ở Pháp... Tôi hiểu rằng thông điệp này sẽ khiến Quý ngài vất vả
Trích thư của Josif Stalin gửi Winston Churchill vào tháng 9 năm 1941

Khi đó Liên Xô đang chịu những thất bại nặng nề, quân đội Hitler đã tiến sâu vào lãnh thổ đất nước, trong khi Đế quốc Anh với các thuộc địa và lãnh thổ thống trị ở Úc, Canada, Ấn Độ và Châu Phi có lực lượng dự bị ít bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Hơn nữa, vào thời điểm đó, Nhật Bản vẫn chưa tham gia trận chiến chống lại các đồng minh phương Tây của chúng ta, và Moskva, khi quan sát đội hình xe tăng của Hitler đang lao về phía mình, tin tưởng một cách hợp lý rằng sự trợ giúp hiệu quả nhất sẽ là việc đổ bộ quân Anh vào hậu phương Châu Âu của Đệ tam Đế chế.

Điều này cũng được hiểu rõ ở Anh quốc. “Sự kháng cự của người Nga mang lại cho chúng ta những cơ hội mới… Nó tạo ra một tình thế gần như mang tính cách mạng ở tất cả các quốc gia bị chiếm đóng và mở ra 2 nghìn dặm bờ biển cho cuộc đổ bộ của quân Anh. Tuy nhiên, quân Đức có thể chuyển các sư đoàn của họ về phía đông mà không bị trừng phạt, bởi vì các tướng lĩnh của chúng ta vẫn coi lục địa là vùng cấm đối với quân Anh..." - chính trị gia có ảnh hưởng người Canada William Aitken, còn được gọi là Lord Beaverbrook, người lúc đó lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc phòng của Đế quốc Anh, đã báo cáo với chính phủ London.

Đồng minh Anh đã không vội vàng mang hết sức lực giúp đỡ Liên Xô. London có cả lý do khách quan và chủ quan cho việc này. Chiến dịch đổ bộ chiến lược quả thực vô cùng khó khăn và nguy hiểm. Ngoài ra, giới tinh hoa của Anh hoàn toàn không sẵn sàng hy sinh xương máu của mình vì đối tác Liên Xô, những người cho đến tháng 6 năm 1941 vẫn bị coi là đối thủ và thậm chí là kẻ thù.

"Tạo ra những khó khăn đặc biệt cho Liên Xô ..."
Sự nhiệt tình đối với mặt trận thứ hai càng tăng lên khi Hoa Kỳ mở cửa tham gia vào chiến tranh thế giới. Kể từ tháng 12 năm 1941, Washington rơi vào tình trạng chiến tranh không chỉ với Nhật Bản mà còn với Đức và tất cả các đồng minh châu Âu của Hitler. Tiềm năng kinh tế ấn tượng của Hoa Kỳ cho phép chúng ta hy vọng vào sự xuất hiện tương đối nhanh chóng của quân đội Mỹ ở châu Âu. Ngoài ra, vào mùa xuân năm 1942, Tổng thống Franklin Roosevelt, khi lựa chọn giữa mặt trận Thái Bình Dương và châu Âu, đã trực tiếp vạch ra ưu tiên nỗ lực chống lại Hitler – Đệ tam Đế chế với các vệ tinh của nó nguy hiểm hơn nhiều đối với Hoa Kỳ so với Nhật Bản.

Roosevelt, một chính trị gia rất giàu kinh nghiệm, cũng tính đến tình cảm của công chúng các nước phương Tây, nơi nhu cầu hỗ trợ hiệu quả hơn cho Liên Xô đang căng mình chiến đấu ngày càng lớn.

Nhân dân nước ngài và nhân dân chúng tôi đang yêu cầu một mặt trận có thể giảm bớt áp lực cho người Nga, và những người dân này đủ khôn ngoan để nhận ra rằng người Nga ngày nay đang giết nhiều quân Đức hơn và phá hủy nhiều thiết bị hơn cả nước ngài và tôi cộng lại
Trích thư của Franklin Delano Roosevelt gửi Winston Churchill vào tháng 4 năm 1942

Đầu mùa hè năm đó, Vyacheslav Molotov, Dân ủy (Bộ trưởng) Ngoại giao Liên Xô, đã đến thăm Washington và London. Người đứng đầu cơ quan ngoại giao Liên Xô và chính quyền hai cường quốc lớn nhất phương Tây đã ký thông cáo chung, tuyên bố về ý định quân sự - chính trị với cụm từ then chốt và rất cụ thể: “Trong quá trình đàm phán, đã đạt được thỏa thuận hoàn chỉnh về nhiệm vụ cấp bách là thành lập mặt trận thứ hai ở châu Âu vào năm 1942.”

Ở Liên Xô, trước cuộc tấn công chiến lược mới của Hitler về hướng Volga, tin tức này đã được đón nhận với sự nhiệt tình dễ hiểu. “Việc thành lập mặt trận thứ hai ở châu Âu sẽ tạo ra những khó khăn không thể vượt qua cho quân đội của Hitler trên mặt trận của chúng ta. Hãy hy vọng rằng kẻ thù chung của chúng ta sẽ sớm cảm nhận được kết quả của sự hợp tác quân sự ngày càng tăng của ba cường quốc…” - trích từ biên bản cuộc họp của Hội đồng tối cao (Quốc hội) Liên Xô.

Than ôi, tuyên bố về ý định đã ký với các đồng minh phương Tây vẫn chỉ là một tuyên bố. Cả năm 1942 và thậm chí cả năm 1943, mặt trận thứ hai đều không xuất hiện ở châu Âu theo nghĩa mà Liên Xô đang chảy máu đang mong chờ.

Sự khó chịu và thất vọng nặng nề nhất thể hiện qua những bước ngoặt ngoại giao trong thông điệp của Stalin, được gửi tới Washington cho Tổng thống Roosevelt vào đầu mùa hè năm 1943, trước Trận chiến Kursk hùng tráng:
Hiện tại, ngài cùng với ngài Churchill đang đưa ra quyết định hoãn cuộc xâm lược Tây Âu của Anh-Mỹ cho đến mùa xuân năm 1944. Nghĩa là, việc mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu, vốn đã bị hoãn lại từ năm 1942 đến năm 1943, lại bị hoãn lại, lần này là đến mùa xuân năm 1944. Quyết định này của ngài gây khó khăn đặc biệt cho Liên Xô, nước đã hai năm nay tiến hành chiến tranh chống lại các lực lượng chính của Đức và các nước vệ tinh của nó với nỗ lực tối đa của tất cả các lực lượng của mình... Không cần phải nói, sự trì hoãn mới này đối với mặt trận thứ hai sẽ tạo ra ấn tượng thật nặng nề và tiêu cực ở Liên Xô – cả trong nhân dân lẫn quân đội

"Đây có thể là thảm họa tồi tệ nhất từ trước đến nay..."
Việc đổ quân giả định vào châu Âu đã gây ra những bất đồng và tranh chấp không chỉ giữa Liên Xô và các đồng minh Anh-Mỹ, mà còn ở khu vực phía Tây của liên minh chống Hitler. Các tài liệu lưu trữ được tiết lộ sau chiến tranh cho thấy người Mỹ đam mê mặt trận thứ hai hơn nhiều so với người Anh. Chính phủ và bộ chỉ huy quân sự Anh, vốn bị gánh nặng bởi trải nghiệm đau buồn ở Dunkirk, đã công khai lo sợ trước viễn cảnh một cuộc đổ bộ quy mô lớn vào Pháp. Trong khi các chính trị gia và quân nhân Mỹ, nhận thức được tiềm năng kinh tế và kỹ thuật của mình, ban đầu ủng hộ một cuộc tấn công quyết định vào Tây Âu. Tướng Dwight David Eisenhower, tổng thống tương lai của Hoa Kỳ, thậm chí còn xây dựng một kế hoạch chi tiết cho việc đổ bộ nhiều sư đoàn vào các bến cảng của Pháp vào đầu năm 1942. Nhưng dự án đầy tham vọng có mật danh Operation Roundup vẫn nằm trên giấy.

Các yếu tố khác cũng góp phần vào sự bất hòa trong phe Đồng minh phương Tây. Khi bắt đầu cuộc chiến, Tổng thống Roosevelt chưa hiểu rõ về Liên Xô và lo sợ rằng nếu không có mặt trận thứ hai, Moskva sẽ bị đánh bại bởi Hitler, kẻ sẽ trở thành kẻ thống trị không thể thách thức ở lục địa châu Âu. Ở London, họ đánh giá tình hình đầy đủ hơn, nhưng không vội hy sinh mạng sống của người Anh để hỗ trợ Liên Xô một cách hiệu quả nhất. Ngoài ra, Thủ tướng Churchill còn bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm cá nhân của ông về các chiến dịch đổ bộ không thành công và cực kỳ đẫm máu trong Thế chiến thứ nhất.

Kết quả là, như chúng ta đã biết, cách tiếp cận của Anh đã chiếm ưu thế trong quân Đồng minh - thay vì đổ bộ quyết định vào Pháp, các hoạt động đổ bộ bắt đầu ở vùng ngoại vi xa xôi của một chiến trường quân sự quy mô lớn. Đầu tiên ở Bắc Phi, sau đó ở Sicily. Chiến lược này không chỉ ít rủi ro hơn mà còn phù hợp hơn nhiều với lợi ích thuộc địa của Đế quốc Anh.

Khi các cuộc đụng độ với lực lượng mặt đất của Đức ngày càng gia tăng, nhiệt tình ban đầu của các tướng Mỹ giảm dần. Quân Đức tỏ ra là kẻ thù mạnh nhất, vượt trội rõ ràng về kỹ năng chiến thuật và hiệu quả chiến đấu, bất chấp ưu thế về quân số của quân Anh-Mỹ.

Ngay cả khi không thể trì hoãn cuộc đổ bộ vào Pháp vì lý do chính trị, cả người Anh lẫn người Mỹ đều tồn tại các nghi ngờ nghiêm trọng. Chỉ một ngày trước cuộc đổ bộ lên Normandy ngày 5/6/1944, Tổng tham mưu trưởng Đế quốc Anh, Alan Brooke, đã trực tiếp chia sẻ nỗi lo ngại của mình: “Tôi vẫn lo lắng về toàn bộ chiến dịch này. Trường hợp tốt nhất thì kết quả vẫn rất xa so với những gì đa số người dân mong đợi... Trường hợp tệ nhất, nó có thể trở thành thảm họa tồi tệ nhất trong toàn bộ cuộc chiến."

Một dấu hiệu rõ ràng về nỗi sợ hãi quá mức và sự lo lắng chính đáng là một sự thật từ tiểu sử của Tướng Eisenhower người Mỹ. Đến tháng 6 năm 1944, ông giữ chức Tư lệnh Đồng minh Tối cao ở Châu Âu, tức là ông chỉ huy toàn bộ lực lượng dự định đổ bộ Normandy. Sau khi đổ bộ thành công, phụ tá của Eisenhower tìm thấy trong túi áo khoác của mình một văn bản soạn sẵn về lời kêu gọi chính thức trong trường hợp thất bại: “Cuộc đổ bộ của chúng tôi không dẫn đến việc giữ lại đầu cầu, và tôi đã quyết định rút quân. Cuộc tấn công vào lúc này và ở nơi này dựa trên thông tin mà tôi có sẵn. Lục quân, không quân và hải quân đã làm tất cả những gì mà lòng dũng cảm và sự tận tâm với nghĩa vụ có thể làm được. Nếu có ai phải chịu trách nhiệm về sự thất bại của nỗ lực này, thì đó chỉ là mình tôi thôi."

Với đường ống và kẹo cao su
Chính trị, thậm chí cả chính trị đồng minh, là một thứ khá yếm thế. Vì vậy, mọi tuyên bố mang tính đạo đức chống lại người Anh và người Mỹ rằng họ đã không vội vã chết vì chúng ta trong những năm 1942–1943 vẫn chỉ là lời nói khoa trương. Trong lĩnh vực đạo đức, kết luận của một số nhà sử học và nhà phân tích quân sự, bao gồm cả những người phương Tây, có sức thuyết phục hơn nhiều, cho rằng nước Đức của Hitler có thể đã bị đánh bại sớm hơn nếu Mỹ và Anh không bị phân tâm bởi các chiến trường quân sự biệt lập như Châu Phi và Ý.

Nhưng vào ngày kỷ niệm 80 năm cuộc đổ bộ nổi tiếng vào Normandy, chúng ta sẽ không chỉ ghi nhận những tuyên bố lịch sử mà còn bày tỏ lòng kính trọng đối với các đồng minh cũ của chúng ta. Vào ngày hôm đó, ngày 6 tháng 6 năm 1944, họ đã hoàn thành một điều chưa từng có trước đây - sự kiện này cho đến ngày nay vẫn là cuộc đổ bộ lớn nhất trong lịch sử loài người.

Hàng chục cuốn sách chi tiết đã được viết về quá trình chuẩn bị và tiến độ của Chiến dịch Overlord. Tuy nhiên, chúng ta hãy lưu ý những sự thật quan trọng nhất. Đồng thời, 156 nghìn bộ binh đã đổ bộ, được hỗ trợ bởi 196 nghìn thủy thủ, với sự tham gia của gần 7 nghìn tàu các loại - từ sà lan đến tàu sân bay. Gần 12 nghìn máy bay Anh và Mỹ đã tham gia chiến dịch.

Sớm hơn một chút so với cuộc đổ bộ của hải quân, vào đêm ngày 6 tháng 6 năm 1944, cuộc tấn công đường không lớn nhất trong lịch sử đã được thực hiện. Hơn 3 nghìn máy bay và tàu lượn đã vận chuyển 24 nghìn binh sĩ, 567 xe cộ, 362 khẩu pháo, hàng trăm tấn đạn dược và thậm chí 18 xe tăng từ Anh sang Pháp.

Để chuẩn bị cho một chiến dịch chưa từng có, các đồng minh phương Tây của chúng ta đã phát triển nhiều giải pháp kỹ thuật độc đáo. Ví dụ, trong vài ngày, các bến cảng nhân tạo rộng lớn đã xuất hiện trên bờ biển nước Pháp, được xây dựng từ hàng loạt tàu cũ bị chìm ngoài khơi và nhiều “phao” bê tông được chuẩn bị trước và hoàn toàn bí mật, được kéo vào bờ.

Trong hai tháng rưỡi tiếp theo sau ngày 6 tháng 6, hơn 2 triệu binh sĩ Đồng minh đã đổ bộ vào Pháp thông qua các bến cảng nhân tạo như vậy. Cùng với họ là 137 nghìn phương tiện bánh lốp và bánh xích cùng hơn 4 nghìn xe tăng và xe bọc thép chở quân.

Ở bên kia eo La Manche, việc đổ bộ hàng loạt binh lính và thiết bị thực sự cần một biển nhiên liệu. Đến tháng 8 năm 1944, quân Đồng minh đã xây dựng một đường ống dài 130 km dọc đáy biển từ Anh đến Pháp. Vài tháng sau, gần hai chục đường ống quân sự như vậy đã hoạt động.

Sự chuẩn bị tỉ mỉ của chiến dịch được thể hiện ngay cả ở những chi tiết tưởng chừng như không đáng kể nhất. Trong ngày đầu tiên của chiến dịch đổ bộ, gần 3 tấn sô cô la và 100 nghìn gói kẹo cao su Orbit, được đưa vào khẩu phần ăn của lính Mỹ, đã xuất hiện trên bờ biển Pháp.

“Nó khiến tất cả chúng tôi hài lòng và hy vọng…”
Nhưng bất chấp tất cả sự chuẩn bị hoành tráng và kỹ lưỡng, “Ngày D” nổi tiếng hóa ra lại là một bài kiểm tra khó khăn đối với các đồng minh phương Tây. Quân Đức, với sức mạnh và nguồn lực ít hơn nhiều, đã kháng cự quyết liệt. Có một số sai lầm gây nhầm lẫn giữa quân Anh-Mỹ. Bãi biển Omaha khét tiếng, một trong năm khu vực đổ bộ vào D-Day, sẽ mãi mãi là biểu tượng của những mất mát và thất bại ban đầu. Những tổn thất nặng nề về tàu bè và người thậm chí còn buộc bộ chỉ huy Mỹ vào tối ngày 6/6/1944 phải tính đến khả năng sơ tán binh lính của mình khỏi khu vực bờ biển này.

“Tất cả các loại rác, thiết bị, xác người - mọi thứ được trộn thành một đống lớn,” một trong những người tham gia cuộc đổ bộ nhớ lại vào buổi tối ngày hôm đó. “Chúng trông giống như tượng sáp của Madame Tussauds. Bạn thậm chí không thể tưởng tượng được rằng họ là người,” một cựu chiến binh khác nhớ lại về nhiều xác chết bồng bềnh trên bãi biển Omaha vào cuối ngày 6 tháng Sáu.

Một thực tế cho thấy là các tờ báo Liên Xô, ngay lập tức đăng tin được chờ đợi từ lâu về cuộc đổ bộ của quân Đồng minh vào Normandy, đã không sử dụng cụm từ “mặt trận thứ hai” trong hơn một tháng. Cụm từ này chỉ xuất hiện trên trang chính vào cuối tháng 7 năm 1944, khi lực lượng đổ bộ của Đồng minh có thể tiến hành một cuộc tấn công quy mô lớn vào sâu trong nước Pháp.

Stalin cảm ơn Roosevelt và Churchill ngay ngày hôm sau sau khi đổ bộ. Nhưng thông điệp rời Moskva ngày 7 tháng 6 năm 1944 về mặt ngoại giao nhấn mạnh sự đóng góp quyết định của phía Liên Xô vào cuộc đấu tranh chung: “Tôi đã nhận được thông điệp của các ngài về sự thành công của việc bắt đầu Chiến dịch Overlord. Nó khiến tất cả chúng tôi hài lòng và hy vọng vào các thành công trong tương lai. Cuộc tấn công mùa hè của quân đội Liên Xô, được tổ chức theo thỏa thuận tại Hội nghị Tehran, sẽ bắt đầu vào giữa tháng 6 trên tại một trong những khu vực quan trọng nhất của mặt trận... Vào cuối tháng 6 và trong suốt tháng 7, các hoạt động tấn công sẽ chuyển sang hướng khác thành một cuộc tổng tấn công của quân đội Liên Xô."

Thông điệp trên của Stalin là về Chiến dịch Bagration. Bắt đầu từ cuối tháng 6 năm 1944 từ cực tây của Smolensk, đến cuối mùa hè năm đó nó đã đánh bại và đẩy lùi quân đội Hitler đến tận Warsaw và biên giới Đông Phổ. Sau đó, vào cuối tháng 8 năm 1944, quân đồng minh Anh-Mỹ đã giải phóng Paris khỏi tay quân Đức. Chính những cuộc tấn công từ hai phía, từ phía đông và phía tây, cuối cùng đã quyết định kết quả của Thế chiến thứ hai ở châu Âu.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top