- Biển số
- OF-210458
- Ngày cấp bằng
- 18/9/13
- Số km
- 2,165
- Động cơ
- 333,727 Mã lực
Dầu động cơ tổng hợp-Bảo vệ động cơ tốt hơn
Tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Đức về “dầu động cơ tổng hợp”: 100% minh bạch và bảo vệ người tiêu dùng.
Tất cả các nơi trên toàn thế giới, khác so với Đức, dầu động cơ nhóm III và nhóm IV đều được dán nhãn là dầu động cơ tổng hợp. Điều này là không được phép ở Đức. Trong thực tế, theo Luật Đức, Dầu động cơ Đức phải phân biệt rõ ràng giữa hai nhóm này.
Nhóm III được sản xuất bằng cách lấy từ phân đoạn dầu bôi trơn, được xử lý ở nhiệt độ cao và áp suất cao và qua quá trình “cracking” bằng hydro. Sản phẩm thu được gọi là dầu gốc nhóm III, hay còn gọi là dầu Hydrocracked hoặc Dầu H.C. Dầu gốc nhóm IV được biết đến như là polypropylen hoặc PAO. Cả 2 loại này đều có tính năng chống lão hoá tuyệt vời, mất mát do bay hơi và khởi động lạnh hoàn hảo. Đó chính là lý do mà phần lớn thế giới gọi dầu tổng hợp HC và PAO là dầu tổng hợp.
Dầu động cơ tổng hợp thích hợp cho động cơ hiện đại
Dầu động cơ tổng hợp là sản phẩm cao cấp và mang lại nhiều lợi ích hơn các loại dầu động cơ gốc khoáng. Mặc dù đắt hơn, nhưng nó kéo dài thời gian sử dụng lâu hơn và bảo vệ động cơ tốt hơn. Điểm đông đặc thấp lý tưởng cho động cơ khởi động trong thời tiết lạnh và độ ổn định ở nhiệt độ cao giúp tăng khả năng bảo vệ động cơ cho xe ô tô và xe tải tốt hơn.
Các nhà sản xuất ô tô đã lợi dụng các ưu điểm của dầu động cơ tổng hợp và sử dụng nó cho động cơ đời mới. Những động cơ này được chế tạo với dung sai rất nhỏ có hệ thống phun nhiên liệu trực tiếp, hệ thống điều khiển điện tử điều chỉnh pha phối khí, và turbo, động cơ mạnh mẽ hơn nhưng sử dụng ít nhiên liệu và xả khí thải ít hơn.
Dầu động cơ tổng hợp là gì
Dầu tổng hợp có tính chất đồng nhất khi so sánh với dầu bôi trơn gốc khoáng thông thường. Dầu động cơ thông thường được làm từ dầu gốc nhóm I và nhóm II pha trộn với các loại phụ gia. Dầu có chứa phân tử hydrocacbon có độ dài khác nhau vì thế mà chúng có màu đậm nhạt khác nhau. Dầu khoáng thông thường rất dễ bị hoá rắn trong thời tiết lạnh và bay hơi khi nóng. Dầu có chứa các hợp chất không mong muốn còn sót lại từ các quá trình hoá học và sẽ làm giảm đi các đặc tính bôi trơn và góp phần tăng xu hướng tạo cặn bùn trong động cơ. Gói phụ gia cải thiện các tính chất của dầu nhưng nó bị suy giảm nhanh theo thời gian. Đây là lý do tại sao yêu cầu thay dầu động cơ gốc khoáng thông thường thường xuyên hơn.
Dầu động cơ tổng hợp được làm từ dầu gốc nhóm III và nhóm IV có kích thước phân tử hydrocarbon đồng nhất và hầu như không chứa các chất gây ô nhiễm có trong dầu gốc nhóm I và II. Tính đồng nhất của dầu gốc góp phần tăng khả năng tuyệt vời của dầu động cơ, đặc biệt là hiệu quả tuyệt vời nhiệt độ cao và thấp.
Các loại dầu tổng hợp
Dầu tổng hợp được làm từ dầu gốc nhóm III và nhóm IV
Dầu gốc nhóm III là dầu khoáng chất lượng cao, được trải qua quá trình hydrocracking khắc nghiệt. Quá trình này diễn ra ở 650 °F và 1000 psi nơi các phân tử hydrocarbon khác nhau bị bẻ gãy mạch để chia thành các phân tử có kích thước đồng đều ngắn hơn. Các tạp chất như lưu huỳnh và nitơ được loại bỏ. Hợp chất sáp sau đó được loại bỏ bằng quá trình tách sáp bằng xúc tác và quá trình izome hoá hydro để tách sáp. Kết quả thu được dầu gốc khoáng nhóm III.
Dầu nhóm IV là một nhóm các sản phẩm được tổng hợp bằng phương pháp hóa học được gọi là polyalphaolefin (PAO), sản xuất từ nguyên liệu ethylene. Dầu bôi trơn làm từ dầu gốc nhóm III và nhóm IV có tính chất tương tự nhau và tốt hơn dầu khoáng truyền thống.
Loại dầu gốc nhóm khác, nhóm V, gồm các loại dầu tổng hợp đặc biệt được sử dụng như là phụ gia dầu và dùng cho các trường hợp đặc biệt khác.
Ở châu Âu, dầu động cơ được sản xuất từ dầu gốc nhóm III được gọi là dầu tổng hợp HC hoặc dầu tổng hợp và từ dầu gốc nhóm IV gọi là dầu tổng hợp hoàn toàn. Ở Bắc Mỹ, tất cả dầu động cơ sản xuất từ dầu gốc nhóm III và IV được gọi là dầu tổng hợp hoàn toàn.
Trên thực tế, có rất ít sự khác biệt trong các đặc điểm kỹ thuật của dầu tổng hợp được sản xuất từ dầu gốc nhóm III và nhóm IV.
Dầu bán tổng hợp là dầu được pha trộn giữa dầu khoáng và không quá 30 % dầu tổng hợp; nó là tốt hơn so với dầu khoáng nhưng kém hơn so với dầu tổng hợp hoàn toàn.
Sản xuất Dầu động cơ tổng hợp
Sản xuất dầu bôi trơn đòi hỏi công nghệ cao, phải đáp ứng các yêu cầu chỉ tiêu kỹ thuật từ API, SAE, ACEA và các nhà sản xuất động cơ. Dầu được sản xuất với một đặc điểm kỹ thuật cụ thể sẽ phải được phê chuẩn bởi các Viện như trên trước khi nó có thể được dán nhãn như vậy.
Bắt đầu là việc lựa chọn các loại dầu gốc chất lượng cao đáp ứng một số yêu cầu như độ nhớt, độ tinh khiết, và nhất quán. Một số chất phụ gia có thể được yêu cầu, bao gồm:
• Phụ gia tẩy rửa
• Phụ gia chống oxy hóa
• Phụ gia chống mài mòn
• Phụ gia biến tính ma sát
• Phụ gia chống tạo bọt
• Phụ gia ức chế ăn mòn
• Phụ gia ngăn chặn hoạt động
• Phụ gia tăng chỉ số độ nhớt
• Phụ gia Deactivators
Dầu gốc được pha trộn để tạo ra các đặc tính cần thiết của dầu, sau đó thêm vào một lượng nhỏ các chất phụ gia vào dầu gốc này để tạo ra dầu động cơ. Đặc tính làm sạch là rất cần thiết để tránh ô nhiễm. Mỗi loại dầu đều có công thức rất riêng để đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết.
Đặc tính kỹ thuật của dầu tổng hợp so với dầu khoáng
Một số các đặc tính của dầu sẽ chỉ ra chất lượng và hiệu quả của dầu đó. Nó bao gồm:
• Độ nhớt: Đây là tính chất quan trọng nhất và là thước đo độ dày màng dầu ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau. Dầu có độ nhớt cao có màng dầu dày hơn dầu có độ nhớt thấp. Dầu động cơ hiện đại thường là dầu đa cấp và duy trì màng dầu bôi trơn động cơ đủ mỏng ở nhiệt độ rất thấp. Điều quan trọng là sử dụng loại dầu theo khuyến nghị của hãng sản xuất động cơ.
• Chỉ số độ nhớt: Khi lạnh dầu trở nên dày (đặc) hơn và khi nóng sẽ mỏng hơn. Chỉ số độ nhớt là thước đo sự thay đổi độ nhớt của dầu giữa 100 °F (37,8 oC) và 210 °F (98,9 oC). Dầu có chỉ số độ nhớt cao có mức thay đổi độ nhớt thấp hơn so với dầu có chỉ số độ nhớt thấp. Dầu gốc khoáng nhóm I, II có chỉ số độ nhớt dưới 120 và cần có phụ gia tăng chỉ số độ nhớt để tăng lên tới mức có thể sử dụng được. Dầu tổng hợp có chỉ số độ nhớt gần bằng 180 và thông thường không cần thêm phụ gia này vào.
• Nhiệt độ đông đặc: Là nhiệt độ thấp nhất mà dầu có thể được rót chảy. Đây là chỉ tiêu tốt để xác định mức độ phù hợp của dầu cho vùng có thời tiết lạnh. Dầu tổng hợp có nhiệt độ đông đặc thấp hơn rất nhiều so với dầu khoáng.
• Trị số kiểm tổng: Tính chất này cho biết khả năng hấp thụ các axit trong động cơ được sinh ra của dầu. Trị số càng cao thì dầu càng sử dụng được lâu.
Chỉ tiêu kỹ thuật của dầu: Làm thế nào để lựa chọn đúng loại dầu
Lựa chọn đúng loại dầu là đơn giản. Đầu tiên, cần lựa chọn đúng độ nhớt. Tiếp đến dầu phải đáp ứng hoặc vượt quá yêu cầu kỹ thuật của nhà sản xuất. Hai tiêu chuẩn thường được sử dụng là API (Bắc Mỹ) và ACEA (Châu Âu):
• Độ nhớt SAE: Hãng sản xuất ô tô khuyến nghị khoảng độ nhớt của dầu có thể sử dụng trong động cơ cụ thể, phụ thuộc vào nhiệt độ cao nhất và nhiệt độ thấp nhất dự kiến. Với khí hậu ấm áp, độ nhớt khuyến nghị có thể là 10W-40 hoặc 15W-40 trong khi ở vùng lạnh là 0/5W-30 hoặc 5W-20 có thể được chỉ định.
• Tiêu chuẩn API cho động cơ xăng: Nếu chỉ số API đã được phê chuẩn thì dầu động cơ phải đáp ứng hoặc vượt quá chỉ tiêu này. Đứng sau API là 2 ký tự chữ hoa; thấp nhất là SA và cao nhất hiện nay là SN, được đưa ra vào năm 2010.
• Tiêu chuẩn API cho động cơ diesel: Xếp loại thấp nhất là CA và cao nhất CJ-4, đưa ra năm 2010.
• Tiêu chuẩn ACEA cho các xe Châu Âu: Các hãng sản xuất ở Châu Âu sử dụng hệ thống tiêu chuẩn khác nhau và dầu được lựa chọn phải đáp ứng các yêu cầu đặc biệt cho một chiếc xe cụ thể. Phổ biến là A1/B1, A3/B3, A3/B4 và A5/B5.
Ký tự A cho động cơ xăng và B cho động cơ diesel. Dầu không đáp ứng đúng tiêu chuẩn không nên sử dụng.
• Tiêu chuẩn đặc biệt của hãng sản xuất: Trong một số trường hợp, sổ tay hướng dẫn sẽ có tuyên bố rằng dầu phải đáp ứng đặc điểm kỹ thuật đặc biệt hãng sản xuất; đặc biệt áp dụng cho các động cơ turbo tăng áp và phun trực tiếp có nguồn gốc Châu Âu.
Tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Đức về “dầu động cơ tổng hợp”: 100% minh bạch và bảo vệ người tiêu dùng.
Tất cả các nơi trên toàn thế giới, khác so với Đức, dầu động cơ nhóm III và nhóm IV đều được dán nhãn là dầu động cơ tổng hợp. Điều này là không được phép ở Đức. Trong thực tế, theo Luật Đức, Dầu động cơ Đức phải phân biệt rõ ràng giữa hai nhóm này.
Nhóm III được sản xuất bằng cách lấy từ phân đoạn dầu bôi trơn, được xử lý ở nhiệt độ cao và áp suất cao và qua quá trình “cracking” bằng hydro. Sản phẩm thu được gọi là dầu gốc nhóm III, hay còn gọi là dầu Hydrocracked hoặc Dầu H.C. Dầu gốc nhóm IV được biết đến như là polypropylen hoặc PAO. Cả 2 loại này đều có tính năng chống lão hoá tuyệt vời, mất mát do bay hơi và khởi động lạnh hoàn hảo. Đó chính là lý do mà phần lớn thế giới gọi dầu tổng hợp HC và PAO là dầu tổng hợp.
Dầu động cơ tổng hợp thích hợp cho động cơ hiện đại
Dầu động cơ tổng hợp là sản phẩm cao cấp và mang lại nhiều lợi ích hơn các loại dầu động cơ gốc khoáng. Mặc dù đắt hơn, nhưng nó kéo dài thời gian sử dụng lâu hơn và bảo vệ động cơ tốt hơn. Điểm đông đặc thấp lý tưởng cho động cơ khởi động trong thời tiết lạnh và độ ổn định ở nhiệt độ cao giúp tăng khả năng bảo vệ động cơ cho xe ô tô và xe tải tốt hơn.
Các nhà sản xuất ô tô đã lợi dụng các ưu điểm của dầu động cơ tổng hợp và sử dụng nó cho động cơ đời mới. Những động cơ này được chế tạo với dung sai rất nhỏ có hệ thống phun nhiên liệu trực tiếp, hệ thống điều khiển điện tử điều chỉnh pha phối khí, và turbo, động cơ mạnh mẽ hơn nhưng sử dụng ít nhiên liệu và xả khí thải ít hơn.
Dầu động cơ tổng hợp là gì
Dầu tổng hợp có tính chất đồng nhất khi so sánh với dầu bôi trơn gốc khoáng thông thường. Dầu động cơ thông thường được làm từ dầu gốc nhóm I và nhóm II pha trộn với các loại phụ gia. Dầu có chứa phân tử hydrocacbon có độ dài khác nhau vì thế mà chúng có màu đậm nhạt khác nhau. Dầu khoáng thông thường rất dễ bị hoá rắn trong thời tiết lạnh và bay hơi khi nóng. Dầu có chứa các hợp chất không mong muốn còn sót lại từ các quá trình hoá học và sẽ làm giảm đi các đặc tính bôi trơn và góp phần tăng xu hướng tạo cặn bùn trong động cơ. Gói phụ gia cải thiện các tính chất của dầu nhưng nó bị suy giảm nhanh theo thời gian. Đây là lý do tại sao yêu cầu thay dầu động cơ gốc khoáng thông thường thường xuyên hơn.
Dầu động cơ tổng hợp được làm từ dầu gốc nhóm III và nhóm IV có kích thước phân tử hydrocarbon đồng nhất và hầu như không chứa các chất gây ô nhiễm có trong dầu gốc nhóm I và II. Tính đồng nhất của dầu gốc góp phần tăng khả năng tuyệt vời của dầu động cơ, đặc biệt là hiệu quả tuyệt vời nhiệt độ cao và thấp.
Các loại dầu tổng hợp
Dầu tổng hợp được làm từ dầu gốc nhóm III và nhóm IV
Dầu gốc nhóm III là dầu khoáng chất lượng cao, được trải qua quá trình hydrocracking khắc nghiệt. Quá trình này diễn ra ở 650 °F và 1000 psi nơi các phân tử hydrocarbon khác nhau bị bẻ gãy mạch để chia thành các phân tử có kích thước đồng đều ngắn hơn. Các tạp chất như lưu huỳnh và nitơ được loại bỏ. Hợp chất sáp sau đó được loại bỏ bằng quá trình tách sáp bằng xúc tác và quá trình izome hoá hydro để tách sáp. Kết quả thu được dầu gốc khoáng nhóm III.
Dầu nhóm IV là một nhóm các sản phẩm được tổng hợp bằng phương pháp hóa học được gọi là polyalphaolefin (PAO), sản xuất từ nguyên liệu ethylene. Dầu bôi trơn làm từ dầu gốc nhóm III và nhóm IV có tính chất tương tự nhau và tốt hơn dầu khoáng truyền thống.
Loại dầu gốc nhóm khác, nhóm V, gồm các loại dầu tổng hợp đặc biệt được sử dụng như là phụ gia dầu và dùng cho các trường hợp đặc biệt khác.
Ở châu Âu, dầu động cơ được sản xuất từ dầu gốc nhóm III được gọi là dầu tổng hợp HC hoặc dầu tổng hợp và từ dầu gốc nhóm IV gọi là dầu tổng hợp hoàn toàn. Ở Bắc Mỹ, tất cả dầu động cơ sản xuất từ dầu gốc nhóm III và IV được gọi là dầu tổng hợp hoàn toàn.
Trên thực tế, có rất ít sự khác biệt trong các đặc điểm kỹ thuật của dầu tổng hợp được sản xuất từ dầu gốc nhóm III và nhóm IV.
Dầu bán tổng hợp là dầu được pha trộn giữa dầu khoáng và không quá 30 % dầu tổng hợp; nó là tốt hơn so với dầu khoáng nhưng kém hơn so với dầu tổng hợp hoàn toàn.
Sản xuất Dầu động cơ tổng hợp
Sản xuất dầu bôi trơn đòi hỏi công nghệ cao, phải đáp ứng các yêu cầu chỉ tiêu kỹ thuật từ API, SAE, ACEA và các nhà sản xuất động cơ. Dầu được sản xuất với một đặc điểm kỹ thuật cụ thể sẽ phải được phê chuẩn bởi các Viện như trên trước khi nó có thể được dán nhãn như vậy.
Bắt đầu là việc lựa chọn các loại dầu gốc chất lượng cao đáp ứng một số yêu cầu như độ nhớt, độ tinh khiết, và nhất quán. Một số chất phụ gia có thể được yêu cầu, bao gồm:
• Phụ gia tẩy rửa
• Phụ gia chống oxy hóa
• Phụ gia chống mài mòn
• Phụ gia biến tính ma sát
• Phụ gia chống tạo bọt
• Phụ gia ức chế ăn mòn
• Phụ gia ngăn chặn hoạt động
• Phụ gia tăng chỉ số độ nhớt
• Phụ gia Deactivators
Dầu gốc được pha trộn để tạo ra các đặc tính cần thiết của dầu, sau đó thêm vào một lượng nhỏ các chất phụ gia vào dầu gốc này để tạo ra dầu động cơ. Đặc tính làm sạch là rất cần thiết để tránh ô nhiễm. Mỗi loại dầu đều có công thức rất riêng để đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết.
Đặc tính kỹ thuật của dầu tổng hợp so với dầu khoáng
Một số các đặc tính của dầu sẽ chỉ ra chất lượng và hiệu quả của dầu đó. Nó bao gồm:
• Độ nhớt: Đây là tính chất quan trọng nhất và là thước đo độ dày màng dầu ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau. Dầu có độ nhớt cao có màng dầu dày hơn dầu có độ nhớt thấp. Dầu động cơ hiện đại thường là dầu đa cấp và duy trì màng dầu bôi trơn động cơ đủ mỏng ở nhiệt độ rất thấp. Điều quan trọng là sử dụng loại dầu theo khuyến nghị của hãng sản xuất động cơ.
• Chỉ số độ nhớt: Khi lạnh dầu trở nên dày (đặc) hơn và khi nóng sẽ mỏng hơn. Chỉ số độ nhớt là thước đo sự thay đổi độ nhớt của dầu giữa 100 °F (37,8 oC) và 210 °F (98,9 oC). Dầu có chỉ số độ nhớt cao có mức thay đổi độ nhớt thấp hơn so với dầu có chỉ số độ nhớt thấp. Dầu gốc khoáng nhóm I, II có chỉ số độ nhớt dưới 120 và cần có phụ gia tăng chỉ số độ nhớt để tăng lên tới mức có thể sử dụng được. Dầu tổng hợp có chỉ số độ nhớt gần bằng 180 và thông thường không cần thêm phụ gia này vào.
• Nhiệt độ đông đặc: Là nhiệt độ thấp nhất mà dầu có thể được rót chảy. Đây là chỉ tiêu tốt để xác định mức độ phù hợp của dầu cho vùng có thời tiết lạnh. Dầu tổng hợp có nhiệt độ đông đặc thấp hơn rất nhiều so với dầu khoáng.
• Trị số kiểm tổng: Tính chất này cho biết khả năng hấp thụ các axit trong động cơ được sinh ra của dầu. Trị số càng cao thì dầu càng sử dụng được lâu.
Chỉ tiêu kỹ thuật của dầu: Làm thế nào để lựa chọn đúng loại dầu
Lựa chọn đúng loại dầu là đơn giản. Đầu tiên, cần lựa chọn đúng độ nhớt. Tiếp đến dầu phải đáp ứng hoặc vượt quá yêu cầu kỹ thuật của nhà sản xuất. Hai tiêu chuẩn thường được sử dụng là API (Bắc Mỹ) và ACEA (Châu Âu):
• Độ nhớt SAE: Hãng sản xuất ô tô khuyến nghị khoảng độ nhớt của dầu có thể sử dụng trong động cơ cụ thể, phụ thuộc vào nhiệt độ cao nhất và nhiệt độ thấp nhất dự kiến. Với khí hậu ấm áp, độ nhớt khuyến nghị có thể là 10W-40 hoặc 15W-40 trong khi ở vùng lạnh là 0/5W-30 hoặc 5W-20 có thể được chỉ định.
• Tiêu chuẩn API cho động cơ xăng: Nếu chỉ số API đã được phê chuẩn thì dầu động cơ phải đáp ứng hoặc vượt quá chỉ tiêu này. Đứng sau API là 2 ký tự chữ hoa; thấp nhất là SA và cao nhất hiện nay là SN, được đưa ra vào năm 2010.
• Tiêu chuẩn API cho động cơ diesel: Xếp loại thấp nhất là CA và cao nhất CJ-4, đưa ra năm 2010.
• Tiêu chuẩn ACEA cho các xe Châu Âu: Các hãng sản xuất ở Châu Âu sử dụng hệ thống tiêu chuẩn khác nhau và dầu được lựa chọn phải đáp ứng các yêu cầu đặc biệt cho một chiếc xe cụ thể. Phổ biến là A1/B1, A3/B3, A3/B4 và A5/B5.
Ký tự A cho động cơ xăng và B cho động cơ diesel. Dầu không đáp ứng đúng tiêu chuẩn không nên sử dụng.
• Tiêu chuẩn đặc biệt của hãng sản xuất: Trong một số trường hợp, sổ tay hướng dẫn sẽ có tuyên bố rằng dầu phải đáp ứng đặc điểm kỹ thuật đặc biệt hãng sản xuất; đặc biệt áp dụng cho các động cơ turbo tăng áp và phun trực tiếp có nguồn gốc Châu Âu.