- Biển số
- OF-158
- Ngày cấp bằng
- 8/6/06
- Số km
- 1,649
- Động cơ
- 597,359 Mã lực
Hệ thống phanh (thắng) được dùng để điều khiển chiếc xe, một chiếc xe đẹp mà có hệ thống phanh không tốt thì hoàn toàn vô nghĩa, vì nó sẽ là nguồn ngócc của tai nạn.
Rất nhiều người quan tâm đến hệ thống phanh, xem nó là hệ thống quan trong nhất.
Hệ thống phanh lý tưởng là hệ thống cho phép người lái dừng xe lại với khoảng cách ngắn nhất. Một yêu cầu khác cho một hệ thống phanh ô tô là việc dừng xe phải ổn định, không bị kéo lê hoặc đâm sang bên cạnh. Hệ thống phan chống bó cứng (ABS) được sử dụng để ngăn ngừa bó kẹt phanh và sự trượt của bánh xe nhằm tạo thêm ma sát để khi phanh gấp sẽ an toàn hơn.
Phanh tang trống là loại được dùng phổ biến trên nhiều loại xe ô tô. Những chiếc xe đầu tiên nhất sử dụng phanh tang trống là loại phanh dùng dùng đai bao quanh mặt ngoài thân trống, khi phanh đai này sẽ ôm lấy thân trống làm giảm vận tốc của xe. Loại phanh này ngày nay chỉ còn thấy sử dụng trên những chiếc xe đạp mini Tầu... ,
Loại phanh này còn gọi là phanh dải.
...còn trên ô tô không còn dùng nữa do cấu tạo loại phanh này bị bất lợi do nước và bụi bẩn ở đường văng lên dính vào má phanh và trống, làm giảm ma sát và khiến mặt trống và má phanh bị mài mòn rất nhanh chóng.
Chính vì vậy mà loại phanh hiện nay đã ra đời và chiếm ưu thế nhờ khắc phục được những khiếm khuyết của thế hệ trước.
Ngày nay các má phanh được bố trí nằm bên trong trống, mỗi khi phanh người điều khiển phải tác động một lực để bung má phanh ra ép sát vào mặt trong của tang trống, vì vậy thiết kế này gọi là phanh bung bên trong.
Hệ thống phanh tang trống đầu tiên được tác động thông qua cơ cấu đòn bẩy cơ khí. Các thanh kim loại hoặc dây cáp, và các tay đòn truyền áp lực từ bàn đạp phanh hoăch tay đòn điều khiển đến guốc phanh.
Một kiểu phanh cũ sử dụng đòn bẩy tác động vào guốc phanh (hiện vẫn áp dụng trên xe gắn máy ở VN)
- Sự kích hoạt guốc phanh.
Khi phanh người điều khiển tác động một lực vào hệ thống dẫn thủy lực hoặc hơi, truyền lực này tới xi lanh nằm bên trong Moayơ, đẩy pist tông ra, tác động vào guốc phanh, ép má phanh chặt vào trống phanh.
Khi trống phanh quay, guốc phía trước (gọi là guốc dẫn động, sơ cấp) được kích hoạt và kéo chặt vào trống phanh, guốc phía sau (guốc bị dẫn, thứ cấp) bị đẩy dang ra hay bị khử kích hoạt. Loại phanh sử dụng guốc dẫn động và bị dẫn thường được gọi là phanh không trợ động.
Vào đây để xem má phanh hoạt động như nào.
Đây nữa, má phanh được kéo bằng dây
Loại phanh trợ động sử dụng chốt cho cả hai guốc, các guốc được bố trí sao cho lực ép của cái này tác động lên cái kia. Theo cách bố trí này, guốc dẫn động tác dụng lực ép lên guốc bị dẫn, và đây gọi là tác động trợ động. Ở loại phanh trợ động, guốc dẫn động gọi là guốc sơ cấp, guốc bị dẫn gọi là guốc thứ cấp. Guốc sơ cấp được định vị về phía trước ô tô, thứ cấp thì phía sau. Khi phanh được tác động, sự quay của trống kích hoạt guốc sơ cấp và nó quay cùng phía với trống phanh, sự dịch chuyển của guốc sơ cấp tác động vào guốc thứ cấp. Vào khoảng 2/3 lực phanh do guốc thứ cấp tạo ra. Do làm việc nhiều guốc thứ cấp thường mòn nhanh hơn guốc sơ cấp. Tác động trợ lực có công suất rất mạnh chỉ yêu cầu một lực rất nhỏ. Khi loại phanh này sử dụng hai piston, hoạt động trợ động có thể xảy ra cả hai chiều tiến và lùi, và nó gọi là phanh có trợ động kép. Đôi khi loại phanh này sử dụng xilanh bánh xe chỉ sử dụng 1 piston, chỉ tác động vào guốc sơ cấp. Nó được gọi là phanh trợ lực đơn và trợ động chỉ xảy ra ơ hướng tiến.
Khi hệ thống phanh trợ động kép được sử dụng ở các bánh sau và phanh đĩa ở bánh trước, sẽ có xu hướng là bánh sau bị khóa kẹt trong khi phanh gấp. Tại thời điểm phanh, sự chuyển dịch trọng lượng làm thay đổi sự cân bằng của lực kéo, làm tăng lực kéo ở bánh trước và giảm lực kéo ở bánh sau, trong lúc hoạt động trợ động lại làm tăng thêm cường độ phanh ở bánh sau. Khi kết hợp phanh tang trống phía sau và phanh đĩa phía trước sử dụng hệ thống thủy lực phân chia kép trước-sau, sự cân bằng trước đến sau của hệ thống này nhờ vào một van định lượng ở phía sau. Van định lượng dùng để giảm lực phanh phía sau trong khi phanh gấp. Trên những xe có hệ thống thủy lực phân chia chéo, yêu cầu có hai van định lượng, một cái nằm giữa hai phần của xilanh chính và một ở phanh sau. Nhiều xe dẫn động bánh trước (FWD) với hệ thống phân chia chéo sử dụng phanh sau loại không trợ động.
-Guốc phanh: Hầu hết guốc phanh của xe du lịch được cấu tạo bởi hai miếng ghép lại. Độ cong của vành guốc phù hợp với mặt trong của trống phanh, bề mặt của vành guốc được gắn với má phanh. Guốc phanh được chế tạo từ nhôm đúc, có trọng lượng nhẹ và tản nhiệt tốt. Guốc phanh có nhiều hình dáng khác nhau, các kiểu đa dạng của guốc phanh được nhân dạng bằng số hiệu guốc được chỉ định bởi viện Tiêu chuẩn vật liệu ma sát (FMSI: Frichon Materials Standards Institute)
Thông thường guốc phanh được đặt hàng theo sự chế tạo, kiểu xe, năm sản xuất đối với từng loại xe riêng để đạt được sự chuẩn xác.
- Má phanh: Ở xe du lịch và xe tải nhẹ má phanh được gắn vào guốc phanh bằng một trong hai cách, dán keo hoặc tán rivê. Còn đối với các xe tải hạng nặng má phanh được khoan lỗ để gắn bulong, cho phép việc thay thế dễ dàng. Tuy nhiên loại má phanh dán thông dụng và được ưa chuộng hơn vì nó tận dụng được tối đa bề dày của má, khi mòn không bị đinh tán cọ làm hỏng mặt trong trống phanh. Má phanh thứ cấp luôn dài hơn má phanh sơ cấp, đôi khi má phanh được gắn ở vị trí cao hay thấp trên guốc để thay đổi đặc tính tự kích hoạt hay trợ động của guốc phanh.
- Mâm phanh: Được thiết kế, chế tạo để gắn cụm phanh, mâm phanh được gắn bằng bulong vào trục bánh sau hoặc khớp lái ở cầu trước, trên mâm phanhcũng có các lỗ, vấu lồi để gắn xilanh thủy lực, lò xo giữ guốc phanh và cáp phanh tay.
- Lò xo phanh: Cụm phanh tang trống thông thường sử dụng hai lò xo, một bộ kéo guốc phanh về vị trí nhả phanh, một bộ dùng để giữ guốc phanh tựa vào mâm phanh. Các lò xo gắn thêm thường được dùng để vận hành cơ cấu tự điều chỉnh và chốnh trạng thái chùng lỏng của hệ thống phanh tay.
Lò xo trả về của guốc phanh có nhiệm vụ rất then chốt, đặc biệt ở loại phanh trợ động. Trog khi nhả phanh ra, các lò xo này sẽ kéo guốc phanh trở về và đẩy piston trở về trạng thái ban đầu.
- Bộ điều chỉnh guốc phanh: Các guốc phanh phải được điều chỉnh theo chu kỳ để giữ cho má phanh phải ttương đối sát với bề mặt trống phanh. Nếu khe hở giữa má phanh và bề mặt trống phanh quá lớn khiến chân phanh phải ấn một đoạn dài phanh mới có tác dụng gây nguy hiểm. Có thời gian khe hở má phanh được điều chỉnh bằng tay.Ở loại phanh trợ động, bộ điều chỉnh là một cụm bằng ren. Ngày nay hầu hết ô tô sử dụng hệ thống điều chỉnh phanh tự động, có nhiều dạng kết cấu khác nhau tùy theo cấu tạo của guốc phanh và nhà sx.
- Trống phanh: Có hình dáng như cái thùng được gắn vào trục bánh xe hoặc mặt bích của moayơ, ở ngay bên trong bánh xe và cùng quay với bánh xe. Trống phanh có bề mặt cứng chịu đượng mài mon, có độ bền vật l đeer không bị biến dạng và hoạt động như một bộ phận tiêu nhiệt. Hầu hết trống phanh được chết tạo bằng gang xám, chống mài mòn khá tốt, một phần do hàmlượng carbon cao cổtng gang xám. Tuy nhiên nhược điểm củâgng là nó khá nặng và dễ nứt vỡ, vì vậy mà nhiều trống phanh được cải tiến bằng cách chế tạo tróng có nhiều thành phần: phần giữa làm bằng thép dập, phần vành và bề mặt ma sat làm bằng gang.
- Hệ thống thủy lực:
Dùng để truyền lực tác động từ bàn đạp đến các guốc phanh. Truyền động thủy lực làm tăng rất đáng kể lực tác dụng. Hệ thống thủy lực có ưu điểm là truyền áp lực bằng nhau đến hai hay nhiều nơi trên cùng hệ thống ở cùng một thời điểm.
Hệ thống phanh thủy lực được bắt đầu ở một xilanh chính, xilanh chính là một bơm thủy lực kiểu piston hoạt động bằng chính bàn đạp phanh. Ống dẫn bằng thép và ống cao su chịu dầu và áp lực nối từ xilanh chính đến các xilanh bánh xe, dầu phanh sẽ tác động vào piston, tiếp theo piston sẽ tác động vào guốc phanh ép vào tang trống.
Vào cuối những năm 1990, hệ thống thủy lực kép được giới thiệu, hệ thống này được chia thành hai bộ phận: ra phía trươc và sau. Sự rò rỉ dầu ở bộ phận nào chỉ làm mất áp suất ở bộ phận đó của hệ thống. Xilanh chính loại kép sử dụng hai piston nối tiếp nhau, một cho phanh trước, hai cho phanh sau. Những xe FWD hay sử dụng hệ thống phân chia chéo: một piston chính vận hành bánh trước bên phải và bánh sau bên trái, piston kia thì ngược lại.
Hệ thống phanh thủy lực trên ô tô thường sử dụng một hoặc nhiều van:
- Van và bộ chuyển mạch chênh lệch áp suất. Cụm van này sẽ bật đèn cảnh báo phanh để thông báo cho tài xé hư hỏng thủy lực xảy ra trong hệ thống.
- Van cân bằng tỷ lệ: Cụm van này se giảm áp suất thủy lực đến phanh tang trống phía sau để giảm khả năng khóa kẹt bánh sau trong khi phanh gấp.
- Van định lượng: Cụm van này làm chậm tác dụng của phanh đĩa phía trước lúc vận hành bàn đạp với lực nhẹ để cho phanh trước và sau tác động cùng một lúc.
Hệ thống này được sử dụng riêng lẻ hoặc nhóm hai hay ba van . Chúng kết hợp thành cụm gọi là van tổ hợp.
Sơ đồ hệ thống thủy lực:
Hệ thống Piston-Xilanh chính:
Đạp thử phanh xem Piston bơm dầu hoạt động ra sao?
Sự cố:
Đạp thử phanh xem ống dầu thủng ở đâu?
Mời xem thêm:
Cùng tìm hiểu về Hệ thống phanh ABS.
Cùng tìm hiểu về ô tô - (Phần 5) Phanh đĩa (Disc Brakes)
Rất nhiều người quan tâm đến hệ thống phanh, xem nó là hệ thống quan trong nhất.
Hệ thống phanh lý tưởng là hệ thống cho phép người lái dừng xe lại với khoảng cách ngắn nhất. Một yêu cầu khác cho một hệ thống phanh ô tô là việc dừng xe phải ổn định, không bị kéo lê hoặc đâm sang bên cạnh. Hệ thống phan chống bó cứng (ABS) được sử dụng để ngăn ngừa bó kẹt phanh và sự trượt của bánh xe nhằm tạo thêm ma sát để khi phanh gấp sẽ an toàn hơn.
Phanh tang trống là loại được dùng phổ biến trên nhiều loại xe ô tô. Những chiếc xe đầu tiên nhất sử dụng phanh tang trống là loại phanh dùng dùng đai bao quanh mặt ngoài thân trống, khi phanh đai này sẽ ôm lấy thân trống làm giảm vận tốc của xe. Loại phanh này ngày nay chỉ còn thấy sử dụng trên những chiếc xe đạp mini Tầu... ,
Loại phanh này còn gọi là phanh dải.
...còn trên ô tô không còn dùng nữa do cấu tạo loại phanh này bị bất lợi do nước và bụi bẩn ở đường văng lên dính vào má phanh và trống, làm giảm ma sát và khiến mặt trống và má phanh bị mài mòn rất nhanh chóng.
Chính vì vậy mà loại phanh hiện nay đã ra đời và chiếm ưu thế nhờ khắc phục được những khiếm khuyết của thế hệ trước.
Ngày nay các má phanh được bố trí nằm bên trong trống, mỗi khi phanh người điều khiển phải tác động một lực để bung má phanh ra ép sát vào mặt trong của tang trống, vì vậy thiết kế này gọi là phanh bung bên trong.
Hệ thống phanh tang trống đầu tiên được tác động thông qua cơ cấu đòn bẩy cơ khí. Các thanh kim loại hoặc dây cáp, và các tay đòn truyền áp lực từ bàn đạp phanh hoăch tay đòn điều khiển đến guốc phanh.
Một kiểu phanh cũ sử dụng đòn bẩy tác động vào guốc phanh (hiện vẫn áp dụng trên xe gắn máy ở VN)
- Sự kích hoạt guốc phanh.
Khi phanh người điều khiển tác động một lực vào hệ thống dẫn thủy lực hoặc hơi, truyền lực này tới xi lanh nằm bên trong Moayơ, đẩy pist tông ra, tác động vào guốc phanh, ép má phanh chặt vào trống phanh.
Khi trống phanh quay, guốc phía trước (gọi là guốc dẫn động, sơ cấp) được kích hoạt và kéo chặt vào trống phanh, guốc phía sau (guốc bị dẫn, thứ cấp) bị đẩy dang ra hay bị khử kích hoạt. Loại phanh sử dụng guốc dẫn động và bị dẫn thường được gọi là phanh không trợ động.
Vào đây để xem má phanh hoạt động như nào.
Đây nữa, má phanh được kéo bằng dây
Loại phanh trợ động sử dụng chốt cho cả hai guốc, các guốc được bố trí sao cho lực ép của cái này tác động lên cái kia. Theo cách bố trí này, guốc dẫn động tác dụng lực ép lên guốc bị dẫn, và đây gọi là tác động trợ động. Ở loại phanh trợ động, guốc dẫn động gọi là guốc sơ cấp, guốc bị dẫn gọi là guốc thứ cấp. Guốc sơ cấp được định vị về phía trước ô tô, thứ cấp thì phía sau. Khi phanh được tác động, sự quay của trống kích hoạt guốc sơ cấp và nó quay cùng phía với trống phanh, sự dịch chuyển của guốc sơ cấp tác động vào guốc thứ cấp. Vào khoảng 2/3 lực phanh do guốc thứ cấp tạo ra. Do làm việc nhiều guốc thứ cấp thường mòn nhanh hơn guốc sơ cấp. Tác động trợ lực có công suất rất mạnh chỉ yêu cầu một lực rất nhỏ. Khi loại phanh này sử dụng hai piston, hoạt động trợ động có thể xảy ra cả hai chiều tiến và lùi, và nó gọi là phanh có trợ động kép. Đôi khi loại phanh này sử dụng xilanh bánh xe chỉ sử dụng 1 piston, chỉ tác động vào guốc sơ cấp. Nó được gọi là phanh trợ lực đơn và trợ động chỉ xảy ra ơ hướng tiến.
Khi hệ thống phanh trợ động kép được sử dụng ở các bánh sau và phanh đĩa ở bánh trước, sẽ có xu hướng là bánh sau bị khóa kẹt trong khi phanh gấp. Tại thời điểm phanh, sự chuyển dịch trọng lượng làm thay đổi sự cân bằng của lực kéo, làm tăng lực kéo ở bánh trước và giảm lực kéo ở bánh sau, trong lúc hoạt động trợ động lại làm tăng thêm cường độ phanh ở bánh sau. Khi kết hợp phanh tang trống phía sau và phanh đĩa phía trước sử dụng hệ thống thủy lực phân chia kép trước-sau, sự cân bằng trước đến sau của hệ thống này nhờ vào một van định lượng ở phía sau. Van định lượng dùng để giảm lực phanh phía sau trong khi phanh gấp. Trên những xe có hệ thống thủy lực phân chia chéo, yêu cầu có hai van định lượng, một cái nằm giữa hai phần của xilanh chính và một ở phanh sau. Nhiều xe dẫn động bánh trước (FWD) với hệ thống phân chia chéo sử dụng phanh sau loại không trợ động.
-Guốc phanh: Hầu hết guốc phanh của xe du lịch được cấu tạo bởi hai miếng ghép lại. Độ cong của vành guốc phù hợp với mặt trong của trống phanh, bề mặt của vành guốc được gắn với má phanh. Guốc phanh được chế tạo từ nhôm đúc, có trọng lượng nhẹ và tản nhiệt tốt. Guốc phanh có nhiều hình dáng khác nhau, các kiểu đa dạng của guốc phanh được nhân dạng bằng số hiệu guốc được chỉ định bởi viện Tiêu chuẩn vật liệu ma sát (FMSI: Frichon Materials Standards Institute)
Thông thường guốc phanh được đặt hàng theo sự chế tạo, kiểu xe, năm sản xuất đối với từng loại xe riêng để đạt được sự chuẩn xác.
- Má phanh: Ở xe du lịch và xe tải nhẹ má phanh được gắn vào guốc phanh bằng một trong hai cách, dán keo hoặc tán rivê. Còn đối với các xe tải hạng nặng má phanh được khoan lỗ để gắn bulong, cho phép việc thay thế dễ dàng. Tuy nhiên loại má phanh dán thông dụng và được ưa chuộng hơn vì nó tận dụng được tối đa bề dày của má, khi mòn không bị đinh tán cọ làm hỏng mặt trong trống phanh. Má phanh thứ cấp luôn dài hơn má phanh sơ cấp, đôi khi má phanh được gắn ở vị trí cao hay thấp trên guốc để thay đổi đặc tính tự kích hoạt hay trợ động của guốc phanh.
- Mâm phanh: Được thiết kế, chế tạo để gắn cụm phanh, mâm phanh được gắn bằng bulong vào trục bánh sau hoặc khớp lái ở cầu trước, trên mâm phanhcũng có các lỗ, vấu lồi để gắn xilanh thủy lực, lò xo giữ guốc phanh và cáp phanh tay.
- Lò xo phanh: Cụm phanh tang trống thông thường sử dụng hai lò xo, một bộ kéo guốc phanh về vị trí nhả phanh, một bộ dùng để giữ guốc phanh tựa vào mâm phanh. Các lò xo gắn thêm thường được dùng để vận hành cơ cấu tự điều chỉnh và chốnh trạng thái chùng lỏng của hệ thống phanh tay.
Lò xo trả về của guốc phanh có nhiệm vụ rất then chốt, đặc biệt ở loại phanh trợ động. Trog khi nhả phanh ra, các lò xo này sẽ kéo guốc phanh trở về và đẩy piston trở về trạng thái ban đầu.
- Bộ điều chỉnh guốc phanh: Các guốc phanh phải được điều chỉnh theo chu kỳ để giữ cho má phanh phải ttương đối sát với bề mặt trống phanh. Nếu khe hở giữa má phanh và bề mặt trống phanh quá lớn khiến chân phanh phải ấn một đoạn dài phanh mới có tác dụng gây nguy hiểm. Có thời gian khe hở má phanh được điều chỉnh bằng tay.Ở loại phanh trợ động, bộ điều chỉnh là một cụm bằng ren. Ngày nay hầu hết ô tô sử dụng hệ thống điều chỉnh phanh tự động, có nhiều dạng kết cấu khác nhau tùy theo cấu tạo của guốc phanh và nhà sx.
- Trống phanh: Có hình dáng như cái thùng được gắn vào trục bánh xe hoặc mặt bích của moayơ, ở ngay bên trong bánh xe và cùng quay với bánh xe. Trống phanh có bề mặt cứng chịu đượng mài mon, có độ bền vật l đeer không bị biến dạng và hoạt động như một bộ phận tiêu nhiệt. Hầu hết trống phanh được chết tạo bằng gang xám, chống mài mòn khá tốt, một phần do hàmlượng carbon cao cổtng gang xám. Tuy nhiên nhược điểm củâgng là nó khá nặng và dễ nứt vỡ, vì vậy mà nhiều trống phanh được cải tiến bằng cách chế tạo tróng có nhiều thành phần: phần giữa làm bằng thép dập, phần vành và bề mặt ma sat làm bằng gang.
- Hệ thống thủy lực:
Dùng để truyền lực tác động từ bàn đạp đến các guốc phanh. Truyền động thủy lực làm tăng rất đáng kể lực tác dụng. Hệ thống thủy lực có ưu điểm là truyền áp lực bằng nhau đến hai hay nhiều nơi trên cùng hệ thống ở cùng một thời điểm.
Hệ thống phanh thủy lực được bắt đầu ở một xilanh chính, xilanh chính là một bơm thủy lực kiểu piston hoạt động bằng chính bàn đạp phanh. Ống dẫn bằng thép và ống cao su chịu dầu và áp lực nối từ xilanh chính đến các xilanh bánh xe, dầu phanh sẽ tác động vào piston, tiếp theo piston sẽ tác động vào guốc phanh ép vào tang trống.
Vào cuối những năm 1990, hệ thống thủy lực kép được giới thiệu, hệ thống này được chia thành hai bộ phận: ra phía trươc và sau. Sự rò rỉ dầu ở bộ phận nào chỉ làm mất áp suất ở bộ phận đó của hệ thống. Xilanh chính loại kép sử dụng hai piston nối tiếp nhau, một cho phanh trước, hai cho phanh sau. Những xe FWD hay sử dụng hệ thống phân chia chéo: một piston chính vận hành bánh trước bên phải và bánh sau bên trái, piston kia thì ngược lại.
Hệ thống phanh thủy lực trên ô tô thường sử dụng một hoặc nhiều van:
- Van và bộ chuyển mạch chênh lệch áp suất. Cụm van này sẽ bật đèn cảnh báo phanh để thông báo cho tài xé hư hỏng thủy lực xảy ra trong hệ thống.
- Van cân bằng tỷ lệ: Cụm van này se giảm áp suất thủy lực đến phanh tang trống phía sau để giảm khả năng khóa kẹt bánh sau trong khi phanh gấp.
- Van định lượng: Cụm van này làm chậm tác dụng của phanh đĩa phía trước lúc vận hành bàn đạp với lực nhẹ để cho phanh trước và sau tác động cùng một lúc.
Hệ thống này được sử dụng riêng lẻ hoặc nhóm hai hay ba van . Chúng kết hợp thành cụm gọi là van tổ hợp.
Sơ đồ hệ thống thủy lực:
Sự cố:
Mời xem thêm:
Cùng tìm hiểu về Hệ thống phanh ABS.
Cùng tìm hiểu về ô tô - (Phần 5) Phanh đĩa (Disc Brakes)
Chỉnh sửa cuối: