[FONT="]Các tàu ngầm Scorpene kết hợp những tiến bộ mới nhất trong cấu trúc modular và hình dáng thân tàu với các công nghệ ở trình độ cao nhất, bao gồm động cơ dẫn động đồng bộ, động cơ diesel tăng áp hai giai đoạn, các ắc qui dung tích lớn. Kiến trúc tổng thể được tối ưu hóa để giảm tiếng ồn. Hính dáng thân tàu được thiết kế để chạy được êm và làm tăng mạnh nhất hiệu quả của các mảng âm thanh của chính tàu ngầm.[/FONT]
[FONT="]Tàu ngầm Scorpene được hợp tác phát triển bởi các hãng DCNS của Pháp và Navantia của Tây Ban Nha.[/FONT]
[FONT="]
Hải quân Malaysia đã đặt hàng 2 chiếc vào tháng 6/2002. Chiếc đầu tiên, KD Tunku Abdul Rahman, được hạ thủy ở nhà máy đóng tàu Cherbourg của DCNS tháng 10/2007. Nó đã được bàn giao vào tháng 1/2009 tại Toulon và cập cảng tại Malaysia tháng 9/2009. Chiếc tàu thứ 2, Tun Razak, đã rời cảng Toulon cuối tháng 4/2010 và sẽ về tới Malaysia vào khoảng trong tháng 6-7/2010.
Một số nước đã đặt hàng mua tàu ngầm Scorpene, trong đó Chile mua 2 chiếc, Ấn Độ đặt hàng 6 chiếc, Brazin đặt hàng 4 chiếc dựa trên kiểu Scorpene.[/FONT]
[FONT="]
Vũ khí
Các vũ khí của tàu gồm các ngư lôi chống hạm, chống ngầm và các tên lửa chống hạm.
Tàu ngầm Scorpene được trang bị 6 ống phóng ngư lôi cỡ 21 inch có thể phóng đồng loạt.
Tàu Scorpene có thể mang theo 18 ngư lôi và tên lửa hoặc 30 thủy lôi. Việc vận chuyển và quản lý các vũ khí được thực hiện tự động.[/FONT]
[FONT="][/FONT][FONT="][/FONT] [FONT="]
Tàu được trang bị các ngư lôi hạng nặng Black Shark WASS. Black Shark là ngư lôi dẫn đường wire-guided 2 tác dụng, được lắp đầu dò âm thanh tích cực/bị động Astra và một bộ dẫn đường đa mục tiêu, một bộ phận điều khiển kết hợp với một hệ thống đối phó - phản công. Ngư lôi có một hệ thống dẫn động dựa trên một ắc qui ôxít bạc và nhôm.
Sáu ống phóng lôi có khả năng phóng các tên lửa chống hạm SM-39 Exocet với tầm bắn 50 km. Tàu sẽ được trang bị hệ thống đo đạc/định vị (ESM/DF) hỗ trợ điện tử EDO Reconnaissance Systems AR-900.
Hệ thống quản lý chiến đấu SUBTICS
Hệ thống quản lý chiến đấu SUBTICS, với các bàn điều khiển thông thường lên tới 6 chức năng và bảng điều khiển tình huống chiến thuật trung tâm.
Hệ thống quản lý chiến đấu được hợp thành từ một hệ thống quản lý dữ liệu chiến thuật và chỉ huy, một hệ thống điều khiển vũ khí và một bộ tích hợp các cảm biến âm thanh với một giao diện cho một bộ các cảm biến phát hiện trên không - mặt biển và cho hệ thống dẫn đường tích hợp. Hệ thống cũng có thể tải dữ liệu từ các nguồn bên ngoài.
Hệ thống dẫn đường tích hợp thu thập dữ liệu từ hệ thống định vị toàn cầu, đồng hồ tốc độ, máy đo độ sâu và hệ thống quản lý độ cân bằng/ độ nghiêng của tàu. Tàu Scorpene quản lý môi trường bao gồm mật độ và nhiệt độ nước biển và tín hiệu ồn của chính nó.
Sonar
Bộ sonar của tàu gồm một mạng hình trụ thụ động tầm xa, một sonar đánh chặn, sonar tích cực, mạng phân tán, mạng sườn, một sonar độ phân giải cao để tránh chướng ngại vật và thủy lôi và một mạng kéo.
Điều khiển và quản lý
Mọi hoạt động xử lý của tàu ngầm đều được thực hiện từ buồng điều khiển. Tàu có các tính năng tự động hóa và giám sát ở mức độ cao, với chế độ điều khiển bánh lái và truyền động tự động, kiểm tra liên tục các hệ thống dẫn động và các máy móc trên bệ, giám sát tập trung và liên tục tất cả các mối nguy hiểm tiềm tàng (rò rỉ, hỏa hoạn, sự xuất hiện các chất khí) và tình trạng của các máy móc mà chúng ảnh hưởng đến sự an toàn trong khi tàu hoạt động ngầm.[/FONT]
[FONT="][/FONT]
[FONT="] Tàu Scorpene có hai biến thể, loại CM-2000 với hệ thống dẫn động thông thường và loại AM-2000 được trang bị hệ thống dẫn động không phụ thuộc không khí. Loại AC-2000 có khả năng duy trì thời gian tác chiến ngầm dưới mặt nước nước dài gấp 3 lần loại CM-2000. [/FONT]
[FONT="][/FONT]
[FONT="] Dẫn động không phụ thuộc không khí
Một tàu ngầm diesel-điện thông thường chạy dưới nước thì khó bị phát hiện. Tuy nhiên nhu cầu đỗ tàu lặp đi lặp lại nhiều lần đến độ sâu của kính tiềm vọng để dùng động cơ diesel nạp điện cho các ắc qui sẽ làm tăng rất nhiều khả năng tổn thương bởi:
- Khả năng phát hiện từ trên không: ống thông hơi nhô lên khỏi mặt nước bị phát hiện bởi radar.
- Khả năng phát hiện từ dưới mặt nước: do gia tăng phát ra tiếng ồn từ các động cơ diesel đang hoạt động.
Tỉ số giữa khoảng thời gian dễ bị tổn thương lớn hơn này và tổng thời gian hoạt động được gọi là “tỉ số lộ liễu” và đối với các tàu ngầm kiểu thông thường tỉ lệ lộ liễu giới hạn trong khoảng 7% - 10% khi tuần tra với tốc độ 4 hải lý /h và 20% - 30% khi di chuyển với tốc độ khoảng 8 hải lý /h.[/FONT]
[FONT="]
Để giảm khả năng dễ bị tổn thương, các tàu ngầm có thể được trang bị một hệ thống dẫn động không phụ thuộc không khí như: động cơ Stirling, tế bào nhiên liệu, động cơ diesel chu trình kín và mô đun MESMA (động cơ tua bin khí chu trình kín).
Hệ thống MESMA, trong đó nhiệt trong chu trình chính được tạo ra bằng cách đốt cháy ethanol với oxygen, có thể dễ dàng được lắp vào thời gian bắt đầu chế tạo tàu hoặc vào giai đoạn hiện đại hóa sau này để chuyển kiểu CM-2000 thành kiểu AM-2000.
Với hệ thống MESMA, tàu ngầm AM-2000 có thể tác chiến ở dưới mặt nước lâu hơn CM-2000 3 lần. Các tính năng hiệu suất của tàu được giữ nguyên ở mọi khía cạnh, ngoại trừ chiều dài tăng lên 70 m và lượng choán nước khi lặn tới 1.870 tấn (so với 61,7 m và 1.565 tấn của CM-2000).
Các tính năng chiến kỹ thuật cơ bản[/FONT]
[FONT="]Thủy thủ đoàn[/FONT][FONT="][/FONT]
[FONT="]31[/FONT]
[FONT="]Kích thước[/FONT][FONT="][/FONT]
[FONT="]Chiều dài [/FONT]
[FONT="]63,5 m[/FONT]
[FONT="]Tầm nước[/FONT]
[FONT="]5,4 m[/FONT]
[FONT="]Lượng choán nước khi lặn[/FONT]
[FONT="]1.590 t[/FONT]
[FONT="]Lượng choán nước khi nổi[/FONT]
[FONT="]1.450 t[/FONT]
[FONT="]Vỏ tàu[/FONT]
[FONT="]Vỏ chịu áp lực thép đàn hồi cường độ cao 80HLS[/FONT]
[FONT="]Áp lực chịu đựng[/FONT]
[FONT="]> 700 Mpa[/FONT]
[FONT="]Hiệu suất[/FONT][FONT="] [/FONT]
[FONT="]Chiều sâu lặn tối đa [/FONT]
[FONT="]350 m[/FONT]
[FONT="]Tốc độ lặn [/FONT]
[FONT="]Trên 20 hải lý/h[/FONT]
[FONT="]Phạm vi hoạt động (8 hải lý/h) [/FONT]
[FONT="]6.400 km[/FONT]
[FONT="]Chu kì hoạt động [/FONT]
[FONT="]50 ngày[/FONT]
[FONT="]Vũ khí[/FONT][FONT="][/FONT]
[FONT="]Ngư lôi/Tên lửa[/FONT]
[FONT="]6 ống phóng cỡ 21 in cho 18 ngư lôi/tên lửa[/FONT]
[FONT="]Nga đang đàm phán h[/FONT][FONT="]ợ[/FONT][FONT="]p đ[/FONT][FONT="]ồ[/FONT][FONT="]ng bán cho Vi[/FONT][FONT="]ệ[/FONT][FONT="]t Nam các tàu ng[/FONT][FONT="]ầ[/FONT][FONT="]m đi[/FONT][FONT="]ệ[/FONT][FONT="]n-diesel, th[/FONT][FONT="]ờ[/FONT][FONT="]i h[/FONT][FONT="]ạ[/FONT][FONT="]n và quy mô h[/FONT][FONT="]ợ[/FONT][FONT="]p đ[/FONT][FONT="]ồ[/FONT][FONT="]ng hi[/FONT][FONT="]ệ[/FONT][FONT="]n ch[/FONT][FONT="]ư[/FONT]a đ[FONT="]ượ[/FONT][FONT="]c xác đ[/FONT][FONT="]ị[/FONT][FONT="]nh, ông Konstantin Biryulin, Phó Giám đ[/FONT][FONT="]ố[/FONT][FONT="]c C[/FONT][FONT="]ơ[/FONT] quan Liên[FONT="] bang v[/FONT][FONT="]ề[/FONT][FONT="] h[/FONT][FONT="]ợ[/FONT][FONT="]p tác KTQS (FS VTS) c[/FONT][FONT="]ủ[/FONT][FONT="]a Nga ti[/FONT][FONT="]ế[/FONT][FONT="]t l[/FONT][FONT="]ộ[/FONT][FONT="] v[/FONT][FONT="]ớ[/FONT][FONT="]i hãng tin RIA Novosti vào ngày th[/FONT][FONT="]ứ[/FONT][FONT="] 6, 13/11/2009. [/FONT]
[FONT="]
[/FONT][FONT="]Trước đó, báo chí đã đưa tin Liên bang Nga dự định bán cho Việt Nam 6 tàu ngầm điện-diesel lớp Kilo Projekt 636 tổng trị giá 1,8 tỷ USD. "Tôi chỉ có thể nói rằng, việc đàm phán đang được tiến hành, thời hạn đưa ra quyết định cuối cùng hiện chưa xác định. Tôi không nói là điều đó có thể xảy ra vào ngày mai, nhưng tất cả các đề xuất thương mại từ phía chúng tôi đã được đưa ra", - ông Biryulin nói.
Theo ông, trong quá trình đàm phán, quy mô mua sắm sẽ được cụ thể hóa. "Đó chính là đối tượng hay một bộ phận của cuộc đàm phán. Bây giờ chưa phải là lúc nói sẽ bán bao nhiêu chiếc tàu ngầm. Con số này có thể thay đổi theo hướng giảm, hoặc theo hướng tăng", - Phó Giám đốc FS VTS cho biết.[/FONT]
Tàu ngầm Projekt 636 Varshavyanka có lượng giãn nước 3.950 tấn, có thể đạt tốc độ đến 20, hoạt động độc lập ngoài khơi trong 45 ngày đêm. Tàu ngầm Projekt 636 lớp Kilo là một trong những tàu ngầm chạy êm nhất thế giới, được thiết kế chuyên dùng để tác chiến chống tàu nổi và tàu ngầm ở vùng nước tương đối nông.
Tàu được hệ thống tên lửa hành trình tiên tiến Club-S và trang bị 6 máy phóng ngư lôi cỡ 533 mm đồng thời có thể dùng để rải lôi hoặc phóng tên lửa hành trình. Để tự vệ khi nổi, thủy thủ đoàn của tàu ngầm có thể sử dụng hệ thống tên lửa vác vai Strela-3 và vũ khí bộ binh.
[FONT="]
[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="]Tàu ngầm Scorpene được hợp tác phát triển bởi các hãng DCNS của Pháp và Navantia của Tây Ban Nha.[/FONT]
[FONT="]
Hải quân Malaysia đã đặt hàng 2 chiếc vào tháng 6/2002. Chiếc đầu tiên, KD Tunku Abdul Rahman, được hạ thủy ở nhà máy đóng tàu Cherbourg của DCNS tháng 10/2007. Nó đã được bàn giao vào tháng 1/2009 tại Toulon và cập cảng tại Malaysia tháng 9/2009. Chiếc tàu thứ 2, Tun Razak, đã rời cảng Toulon cuối tháng 4/2010 và sẽ về tới Malaysia vào khoảng trong tháng 6-7/2010.
Một số nước đã đặt hàng mua tàu ngầm Scorpene, trong đó Chile mua 2 chiếc, Ấn Độ đặt hàng 6 chiếc, Brazin đặt hàng 4 chiếc dựa trên kiểu Scorpene.[/FONT]
[FONT="]
Vũ khí
Các vũ khí của tàu gồm các ngư lôi chống hạm, chống ngầm và các tên lửa chống hạm.
Tàu ngầm Scorpene được trang bị 6 ống phóng ngư lôi cỡ 21 inch có thể phóng đồng loạt.
Tàu Scorpene có thể mang theo 18 ngư lôi và tên lửa hoặc 30 thủy lôi. Việc vận chuyển và quản lý các vũ khí được thực hiện tự động.[/FONT]
[FONT="][/FONT][FONT="][/FONT] [FONT="]
Tàu được trang bị các ngư lôi hạng nặng Black Shark WASS. Black Shark là ngư lôi dẫn đường wire-guided 2 tác dụng, được lắp đầu dò âm thanh tích cực/bị động Astra và một bộ dẫn đường đa mục tiêu, một bộ phận điều khiển kết hợp với một hệ thống đối phó - phản công. Ngư lôi có một hệ thống dẫn động dựa trên một ắc qui ôxít bạc và nhôm.
Sáu ống phóng lôi có khả năng phóng các tên lửa chống hạm SM-39 Exocet với tầm bắn 50 km. Tàu sẽ được trang bị hệ thống đo đạc/định vị (ESM/DF) hỗ trợ điện tử EDO Reconnaissance Systems AR-900.
Hệ thống quản lý chiến đấu SUBTICS
Hệ thống quản lý chiến đấu SUBTICS, với các bàn điều khiển thông thường lên tới 6 chức năng và bảng điều khiển tình huống chiến thuật trung tâm.
Hệ thống quản lý chiến đấu được hợp thành từ một hệ thống quản lý dữ liệu chiến thuật và chỉ huy, một hệ thống điều khiển vũ khí và một bộ tích hợp các cảm biến âm thanh với một giao diện cho một bộ các cảm biến phát hiện trên không - mặt biển và cho hệ thống dẫn đường tích hợp. Hệ thống cũng có thể tải dữ liệu từ các nguồn bên ngoài.
Hệ thống dẫn đường tích hợp thu thập dữ liệu từ hệ thống định vị toàn cầu, đồng hồ tốc độ, máy đo độ sâu và hệ thống quản lý độ cân bằng/ độ nghiêng của tàu. Tàu Scorpene quản lý môi trường bao gồm mật độ và nhiệt độ nước biển và tín hiệu ồn của chính nó.
Sonar
Bộ sonar của tàu gồm một mạng hình trụ thụ động tầm xa, một sonar đánh chặn, sonar tích cực, mạng phân tán, mạng sườn, một sonar độ phân giải cao để tránh chướng ngại vật và thủy lôi và một mạng kéo.
Điều khiển và quản lý
Mọi hoạt động xử lý của tàu ngầm đều được thực hiện từ buồng điều khiển. Tàu có các tính năng tự động hóa và giám sát ở mức độ cao, với chế độ điều khiển bánh lái và truyền động tự động, kiểm tra liên tục các hệ thống dẫn động và các máy móc trên bệ, giám sát tập trung và liên tục tất cả các mối nguy hiểm tiềm tàng (rò rỉ, hỏa hoạn, sự xuất hiện các chất khí) và tình trạng của các máy móc mà chúng ảnh hưởng đến sự an toàn trong khi tàu hoạt động ngầm.[/FONT]
[FONT="]
[/FONT]
[/FONT]
[FONT="]Cấu trúc[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tàu ngầm có tính dự phòng hệ thống ở mức độ cao để đạt được thời gian hoạt động trung bình 240 ngày/năm đối với mỗi tàu. Độ lặn sâu tối đa là 300m, cho phép người chỉ huy tự do hơn về chiến thuật so với mức độ vẫn có trước đó trên các tàu ngầm thông thường. Tàu không hạn chế về thời gian khi lặn sâu ở mức tối đa.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Cấu trúc của tàu ngầm dùng thép ứng suất đặc thù đàn hồi cao cho phép lặn ở độ sâu nhất bao nhiêu lần tùy ý.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Việc sử dụng thép cường độ cao làm giảm được trọng lượng của vỏ tàu chịu áp lực, cho phép chở được nhiều nhiên liệu và vũ khí hơn. [/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Các chi tiết bổ sung được giảm bớt làm giảm tối đa các chi phí đào tạo và tăng năng lực chiến đấu bởi tạo thêm được không gian, còn trọng tải lớn hơn sẽ giúp tăng cường tính tự chủ của tàu.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Khi lặn, tàu Scorpene có tiếng ồn phát ra thấp, điều đó cho phép cải thiện các phạm vi phát hiện của các cảm biến riêng của tàu và giảm nguy cơ phát hiện bởi các cảm biến của đối phương. Tiếng ồn phát ra thấp đạt được thông qua việc sử dụng các nguyên lý thủy động lực học tiên tiến, với các chi tiết phụ ít hơn và chân vịt được tối ưu hóa.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Giữa các boong tàu được treo, trang thiết bị được lắp trên các giá đàn hồi tại bất cứ chỗ nào có thể, và các hệ thống nhiều tiếng ồn nhất có giá đàn hồi kép để giảm nguy cơ các cơ cấu ồn của chúng phát ra bên ngoài tàu. Các hệ thống chống sốc được phát triển từ các hệ thống đã kết hợp trong các thiết kế tàu ngầm năng lượng hạt nhân tiên tiến.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Độ ồn thấp và hệ thống chống sốc thủy động lực học làm cho lớp tàu Scorpene có khả năng thực hiện tác chiến chống tàu ngầm và tàu nổi trong các điều kiện biển đóng hoặc mở, cũng như khả năng thao tác với các lực lượng đặc biệt trong vùng nước gần bờ.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Phương tiện cho thủy thủ đoàn[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tàu có thể chở tổng cộng 31 người với một đội canh gác theo tiêu chuẩn 9 người. Buồng điều khiển và các phòng ở được lắp trên một tấm cơ động cách âm và đàn hồi phụ trợ. Mọi khu vực sinh hoạt và tác chiến có điều hòa không khí. Tàu cũng có khu vực dành cho 6 chiếc giường gấp bổ sung dùng cho cho đội thủy thủ tác chiến đặc biệt.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tàu được trang bị mọi hệ thống cần thiết để đảm bảo điều kiện sống, nước uống, nhu yếu phẩm, tái tạo không khí, để đảm bảo sự sống cho toàn bộ thủ thủ đoàn trong vòng 7 ngày.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tàu được trang bị đầy đủ các hệ thống an toàn và cứu hộ. Tàu có một điểm kết nối với một chiếc chuông lặn hoặc một chiếc xe hoạt động ngầm dưới sâu cho phép thực hiện các hoạt động cứu hộ tập thể.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Thiết kế đảm bảo bí mật[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Sơ đồ và thiết kế của tàu Scorpene hướng tới việc có được một chiếc tàu thật êm với khả năng phát hiện và sức mạnh tấn công cao.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Các hình dạng của thân tàu, tàu và các phần phụ được thiết kế chính xác để giảm tối thiểu tiếng ồn thủy động lực học. Những bộ phận khác nhau của thiết bị được lắp trên các giá đàn hồi, mà chúng lần lượt được lắp trên các khối tách rời và các boong tàu được treo. [/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tính độc lập cũng tạo khả năng bảo vệ sốc tốt hơn cho thiết bị.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Các hệ thống dẫn động[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="][/FONT][FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tàu ngầm có tính dự phòng hệ thống ở mức độ cao để đạt được thời gian hoạt động trung bình 240 ngày/năm đối với mỗi tàu. Độ lặn sâu tối đa là 300m, cho phép người chỉ huy tự do hơn về chiến thuật so với mức độ vẫn có trước đó trên các tàu ngầm thông thường. Tàu không hạn chế về thời gian khi lặn sâu ở mức tối đa.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Cấu trúc của tàu ngầm dùng thép ứng suất đặc thù đàn hồi cao cho phép lặn ở độ sâu nhất bao nhiêu lần tùy ý.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Việc sử dụng thép cường độ cao làm giảm được trọng lượng của vỏ tàu chịu áp lực, cho phép chở được nhiều nhiên liệu và vũ khí hơn. [/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Các chi tiết bổ sung được giảm bớt làm giảm tối đa các chi phí đào tạo và tăng năng lực chiến đấu bởi tạo thêm được không gian, còn trọng tải lớn hơn sẽ giúp tăng cường tính tự chủ của tàu.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Khi lặn, tàu Scorpene có tiếng ồn phát ra thấp, điều đó cho phép cải thiện các phạm vi phát hiện của các cảm biến riêng của tàu và giảm nguy cơ phát hiện bởi các cảm biến của đối phương. Tiếng ồn phát ra thấp đạt được thông qua việc sử dụng các nguyên lý thủy động lực học tiên tiến, với các chi tiết phụ ít hơn và chân vịt được tối ưu hóa.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Giữa các boong tàu được treo, trang thiết bị được lắp trên các giá đàn hồi tại bất cứ chỗ nào có thể, và các hệ thống nhiều tiếng ồn nhất có giá đàn hồi kép để giảm nguy cơ các cơ cấu ồn của chúng phát ra bên ngoài tàu. Các hệ thống chống sốc được phát triển từ các hệ thống đã kết hợp trong các thiết kế tàu ngầm năng lượng hạt nhân tiên tiến.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Độ ồn thấp và hệ thống chống sốc thủy động lực học làm cho lớp tàu Scorpene có khả năng thực hiện tác chiến chống tàu ngầm và tàu nổi trong các điều kiện biển đóng hoặc mở, cũng như khả năng thao tác với các lực lượng đặc biệt trong vùng nước gần bờ.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Phương tiện cho thủy thủ đoàn[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tàu có thể chở tổng cộng 31 người với một đội canh gác theo tiêu chuẩn 9 người. Buồng điều khiển và các phòng ở được lắp trên một tấm cơ động cách âm và đàn hồi phụ trợ. Mọi khu vực sinh hoạt và tác chiến có điều hòa không khí. Tàu cũng có khu vực dành cho 6 chiếc giường gấp bổ sung dùng cho cho đội thủy thủ tác chiến đặc biệt.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tàu được trang bị mọi hệ thống cần thiết để đảm bảo điều kiện sống, nước uống, nhu yếu phẩm, tái tạo không khí, để đảm bảo sự sống cho toàn bộ thủ thủ đoàn trong vòng 7 ngày.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tàu được trang bị đầy đủ các hệ thống an toàn và cứu hộ. Tàu có một điểm kết nối với một chiếc chuông lặn hoặc một chiếc xe hoạt động ngầm dưới sâu cho phép thực hiện các hoạt động cứu hộ tập thể.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Thiết kế đảm bảo bí mật[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Sơ đồ và thiết kế của tàu Scorpene hướng tới việc có được một chiếc tàu thật êm với khả năng phát hiện và sức mạnh tấn công cao.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Các hình dạng của thân tàu, tàu và các phần phụ được thiết kế chính xác để giảm tối thiểu tiếng ồn thủy động lực học. Những bộ phận khác nhau của thiết bị được lắp trên các giá đàn hồi, mà chúng lần lượt được lắp trên các khối tách rời và các boong tàu được treo. [/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Tính độc lập cũng tạo khả năng bảo vệ sốc tốt hơn cho thiết bị.[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="] Các hệ thống dẫn động[/FONT]
[FONT="] [/FONT]
[FONT="][/FONT]
[FONT="] Tàu Scorpene có hai bộ máy phát điện diesel cung cấp công suất 1.250 kW. Phía trên thân tàu ngay trên các tổ hợp máy phát là một cơ cấu nắp tàu. Tàu ngầm có một động cơ 2.900 kW điều khiển bằng điện tử lắp trên trụ đàn hồi.[/FONT]
[FONT="][/FONT]
[FONT="][/FONT]
[FONT="]
[/FONT]
[/FONT]
[FONT="] Tàu Scorpene có hai biến thể, loại CM-2000 với hệ thống dẫn động thông thường và loại AM-2000 được trang bị hệ thống dẫn động không phụ thuộc không khí. Loại AC-2000 có khả năng duy trì thời gian tác chiến ngầm dưới mặt nước nước dài gấp 3 lần loại CM-2000. [/FONT]
[FONT="][/FONT]
[FONT="] Dẫn động không phụ thuộc không khí
Một tàu ngầm diesel-điện thông thường chạy dưới nước thì khó bị phát hiện. Tuy nhiên nhu cầu đỗ tàu lặp đi lặp lại nhiều lần đến độ sâu của kính tiềm vọng để dùng động cơ diesel nạp điện cho các ắc qui sẽ làm tăng rất nhiều khả năng tổn thương bởi:
- Khả năng phát hiện từ trên không: ống thông hơi nhô lên khỏi mặt nước bị phát hiện bởi radar.
- Khả năng phát hiện từ dưới mặt nước: do gia tăng phát ra tiếng ồn từ các động cơ diesel đang hoạt động.
Tỉ số giữa khoảng thời gian dễ bị tổn thương lớn hơn này và tổng thời gian hoạt động được gọi là “tỉ số lộ liễu” và đối với các tàu ngầm kiểu thông thường tỉ lệ lộ liễu giới hạn trong khoảng 7% - 10% khi tuần tra với tốc độ 4 hải lý /h và 20% - 30% khi di chuyển với tốc độ khoảng 8 hải lý /h.[/FONT]
[FONT="]
Để giảm khả năng dễ bị tổn thương, các tàu ngầm có thể được trang bị một hệ thống dẫn động không phụ thuộc không khí như: động cơ Stirling, tế bào nhiên liệu, động cơ diesel chu trình kín và mô đun MESMA (động cơ tua bin khí chu trình kín).
Hệ thống MESMA, trong đó nhiệt trong chu trình chính được tạo ra bằng cách đốt cháy ethanol với oxygen, có thể dễ dàng được lắp vào thời gian bắt đầu chế tạo tàu hoặc vào giai đoạn hiện đại hóa sau này để chuyển kiểu CM-2000 thành kiểu AM-2000.
Với hệ thống MESMA, tàu ngầm AM-2000 có thể tác chiến ở dưới mặt nước lâu hơn CM-2000 3 lần. Các tính năng hiệu suất của tàu được giữ nguyên ở mọi khía cạnh, ngoại trừ chiều dài tăng lên 70 m và lượng choán nước khi lặn tới 1.870 tấn (so với 61,7 m và 1.565 tấn của CM-2000).
Các tính năng chiến kỹ thuật cơ bản[/FONT]
[FONT="]Thủy thủ đoàn[/FONT][FONT="][/FONT]
[FONT="]31[/FONT]
[FONT="]Kích thước[/FONT][FONT="][/FONT]
[FONT="]Chiều dài [/FONT]
[FONT="]63,5 m[/FONT]
[FONT="]Tầm nước[/FONT]
[FONT="]5,4 m[/FONT]
[FONT="]Lượng choán nước khi lặn[/FONT]
[FONT="]1.590 t[/FONT]
[FONT="]Lượng choán nước khi nổi[/FONT]
[FONT="]1.450 t[/FONT]
[FONT="]Vỏ tàu[/FONT]
[FONT="]Vỏ chịu áp lực thép đàn hồi cường độ cao 80HLS[/FONT]
[FONT="]Áp lực chịu đựng[/FONT]
[FONT="]> 700 Mpa[/FONT]
[FONT="]Hiệu suất[/FONT][FONT="] [/FONT]
[FONT="]Chiều sâu lặn tối đa [/FONT]
[FONT="]350 m[/FONT]
[FONT="]Tốc độ lặn [/FONT]
[FONT="]Trên 20 hải lý/h[/FONT]
[FONT="]Phạm vi hoạt động (8 hải lý/h) [/FONT]
[FONT="]6.400 km[/FONT]
[FONT="]Chu kì hoạt động [/FONT]
[FONT="]50 ngày[/FONT]
[FONT="]Vũ khí[/FONT][FONT="][/FONT]
[FONT="]Ngư lôi/Tên lửa[/FONT]
[FONT="]6 ống phóng cỡ 21 in cho 18 ngư lôi/tên lửa[/FONT]
---------ooo000ooo--------
[FONT="]
[/FONT][FONT="]Trước đó, báo chí đã đưa tin Liên bang Nga dự định bán cho Việt Nam 6 tàu ngầm điện-diesel lớp Kilo Projekt 636 tổng trị giá 1,8 tỷ USD. "Tôi chỉ có thể nói rằng, việc đàm phán đang được tiến hành, thời hạn đưa ra quyết định cuối cùng hiện chưa xác định. Tôi không nói là điều đó có thể xảy ra vào ngày mai, nhưng tất cả các đề xuất thương mại từ phía chúng tôi đã được đưa ra", - ông Biryulin nói.
Theo ông, trong quá trình đàm phán, quy mô mua sắm sẽ được cụ thể hóa. "Đó chính là đối tượng hay một bộ phận của cuộc đàm phán. Bây giờ chưa phải là lúc nói sẽ bán bao nhiêu chiếc tàu ngầm. Con số này có thể thay đổi theo hướng giảm, hoặc theo hướng tăng", - Phó Giám đốc FS VTS cho biết.[/FONT]
Tàu ngầm Projekt 636 Varshavyanka có lượng giãn nước 3.950 tấn, có thể đạt tốc độ đến 20, hoạt động độc lập ngoài khơi trong 45 ngày đêm. Tàu ngầm Projekt 636 lớp Kilo là một trong những tàu ngầm chạy êm nhất thế giới, được thiết kế chuyên dùng để tác chiến chống tàu nổi và tàu ngầm ở vùng nước tương đối nông.
Tàu được hệ thống tên lửa hành trình tiên tiến Club-S và trang bị 6 máy phóng ngư lôi cỡ 533 mm đồng thời có thể dùng để rải lôi hoặc phóng tên lửa hành trình. Để tự vệ khi nổi, thủy thủ đoàn của tàu ngầm có thể sử dụng hệ thống tên lửa vác vai Strela-3 và vũ khí bộ binh.
[FONT="]
[FONT="] [/FONT]